Từ cao ethanol của cây Ruột gà có khớp (Borreria articularis), ba hợp chất iridoid được phân lập bằng các kĩ thuật sắc kí. Cấu trúc của ba hợp chất này được xác định bằng phương pháp phổ NMR, bao gồm 6-O-methylscandoside methyl ester (1), 6-O-methyldeacetylasperulosidic acid methyl ester (2) và deacetylasperulosidic acid (3). Đây là lần đầu tiên hai hợp chất (1) và (2) được phát hiện có trong chi Borreria.
Các mỏ của Công ty TNHH MTV 35 (Quang Hanh), mỏ than của Công ty TNHH MTV 618 (Đông Triều) và mỏ than của Công ty TNHH MTV 790 (Mông Dương) và 02 mỏ thuộc TKV là: Công ty TNNH MTV Than Uông Bí và Công ty Cổ phần Than Hà Lầm (Hạ Long)là các mỏ hầm lò nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Kết quả phân tích các mẫu nước thải chưa qua xử lý được lấy tại cửa lò cho thấy tùy thuộc vào từng thời điểm lấy mẫu: nước thải có giá trị pH thấp, hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS), sắt tổng (Fe), mangan (Mn) và dầu mỡ khoáng cao, hầu hết đều vượt giới hạn cho phép được quy định trong cột B của QCVN 40:2011/BTNMT đối với chất lượng nước thải công nghiệp. Hàm lượng các kim loại nặng và Coliform trong nước thải vẫn nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép được quy định ở cột B của QCVN 40:2011/BTNMT về chất lượng nước thải công nghiệp trước khi thải vào môi trường.
Mục đích nghiên cứu trên mô hình phòng thí nghiệm đối với nước nước thải hầm lò mỏ than (HLMT) -75m Công ty than Hà Lầm và Công ty than Mông Dương là đánh giá khả năng xử lý (tách) Fe và Mn bằng màng với đặc tính kỹ thuật riêng; đồng thời, đánh giá sự tích tụ các chất ô nhiễm lên màng và khả năng loại bỏ các chất này bằng các hóa chất rửa màng. Kết quả nghiên cứu trên mô hình phòng thí nghiệm với loại màng MF sợi rỗng cho thấy, màng lọc MF có thể loại bỏ được sắt, mangan, một số kim loại nặng và vi khuẩn trong nước thải hầm lò mỏ than sau khi xử lý đạt mức A của QCVN 40:2011/BTNMMT để đạt được nước đầu ra đủ tiêu chuẩn một số chỉ tiêu chính cho mục đích cấp nước sinh hoạt cho công nhân mỏ. Chỉ tiêu độ cứng của nước CaCO3 và hàm lượng Clo dư thì màng MF không giải quyết được triệt để. Về mặt an toàn an toàn, cần tính toán áp dụng một loại màng vừa có khả năng loại bỏ độ cứng của nước và làm giảm độ mặn của nước thải hầm lò mỏ than do khai thác sâu để tái sử dụng cấp cho sinh hoạt.
Theo nghiên cứu, nếu chỉ theo đuổi các nỗ lực giảm khí thải CO2 thông qua giảm sử dụng các nhiên liệu hóa thạch thì đến năm 2045, Trái Đất vẫn sẽ ấm thêm 2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Theo báo cáo của The Guardian, thảm thực vật rừng nhiệt đới Úc đang chết với tốc độ nhanh gấp đôi so với những năm 1980 do tác động xấu của biến đổi khí hậu.
Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm là cách tiếp cận phù hợp để nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức nói chung và công chức ngành tài nguyên môi trường nói riêng. Đây là một trong bốn hình thức bồi dưỡng được quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Bài báo tập trung vào nội dung điều tra, khảo sát nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng theo vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành (lĩnh vực đất đai; môi trường; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ). Kết quả của nghiên cứu là một trong những luận cứ cần thiết để xây dựng chương trình bồi dưỡng theo vị trí việc làm cho công chức Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất (SDĐ) đến năm 2020 trên địa bàn quận 9 (cũ), TP. Hồ Chí Minh để tìm ra những mặt được và những hạn chế trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện phương án. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao tính khả thi, khắc phục những nội dung bất hợp lý, làm căn cứ phục vụ cho phương án quy hoạch sử dụng đất trong những năm tới được hiệu quả hơn. Kết quả thực hiện các công trình, dự án trong quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020: 58 công trình đã thực hiện, chiếm 17,52% tổng số công trình; 84 công trình đang thực hiện, chiếm 25,38% tổng số công trình; 189 công trình chưa thực hiện, chiếm 57,10% tổng số công trình.
Huyện Ba Vì (Hà Nội) là một trong những địa phương có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nhờ có điều kiện về tự nhiên và văn hóa xã hội thuận lợi. Trong những năm qua, du lịch Ba Vì đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ, thu hút ngày càng nhiều du khách trong nước và quốc tế, mang lại những hiệu quả kinh tế rất to lớn. Trong quá trình phát triển, cách tổ chức du lịch của huyện cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Do vậy, muốn du lịch Ba Vì phát triển theo hướng bền vững cần phải có những giải pháp đồng bộ trên cơ sở phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lịch sử văn hoá sẵn có của huyện.
Ngày 16/5/2022 tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo có nội dung trên. Vụ KH&CN, Tổng cục Môi trường, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT đồng phối hợp tổ chức. Thứ trưởng Võ Tuấn nhân đến dự và chỉ đạo Hội nghị. Tham dự lãnh đạo các đơn vị, các chuyên gia nghiên cứu, các nhà khoa học trong lĩnh vực môi trường,..
Độ mặn là một yếu tố quan trọng trong việc xác định nhiều khía cạnh hóa học của nước tự nhiên và các quá trình sinh học bên trong nó. Dự báo độ mặn chính xác có thể hỗ trợ việc ra quyết định quản lý tài nguyên nước để giảm thiểu nguy cơ thiếu nguồn cung cấp nước ngọt ở các cửa sông đông dân cư. Các phương pháp thống kê có chi phí thấp và tốn ít thời gian hơn so với các mô hình số và mô hình vật lý để dự đoán các biến đổi độ mặn của cửa sông. Các công trình nghiên cứu gần đây đã đạt được thành công hợp lý trong việc dự đoán độ mặn. Tuy nhiên, mức độ chính xác của các mô hình đã được đề xuất cần được cải thiện. Bài báo này áp dụng và so sánh các phương pháp học tập thể cho bài toán dự đoán độ mặn. Kết quả thực nghiệm cho thấy nhóm thuật toán Bagging Ensemble Learning cho kết quả tốt nhất.
Dự án “Nâng cao khả năng chống chịu, phát triển khu định cư con người và sinh thái gắn kết, bền vững thông qua các can thiệp hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long” (HREMRD) triển khai năm 2021 do Vụ Pháp chế, Bộ TN&MT đề xuất. Trong năm thứ nhất, Dự án nghiên cứu và xây dựng hướng dẫn tài liệu tập huấn về đánh giá rủi ro, dễ bị tổn thương cấp địa phương. Dự án HREMRD đã phối hợp với Trung tâm Ứng phó biến đổi khí hậu, Cục Biến đổi khí hậu áp dụng kết quả nghiên cứu từ Hướng dẫn đánh giá vào khảo sát thực địa tại 2 tỉnh Trà Vinh và Bạc Liêu. Bài viết này sẽ làm rõ một số hiện trạng rủi ro, dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu những năm gần đây tại hai tỉnh Trà Vinh và Bạc Liêu.
Nếu lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính không được kiểm soát thì tỉ lệ sinh vật biển có thể chết ở mức báo động, cùng với các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Trái Đất.
Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Scientific Advances, biến đổi khí hậu do con người gây ra sẽ khiến các cơn bão lốc xoáy nhiệt đới mạnh gấp đôi vào giữa thế kỷ này. Các cơn bão lốc này sẽ làm cho nhiều vùng trên thế giới gặp nguy hiểm trong đó có Việt Nam.
Nghiên cứu tập trung đánh giá thực trạng hoạt động du lịch sinh thái (DLST) tại di tích lịch sử Tà Thiết, tiềm năng của khu di tích Tà Thiết để phát triển du lịch sinh thái cũng như tồn tại và thách thức trong phát triển du lịch sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử tại khu di tích Tà Thiết. Thông qua dữ liệu thu thập từ các cuộc điều tra, phỏng vấn, thu thập tài liệu và đánh giá mô hình SWOT cho thấy, khu di tích Tà Thiết có nhiều tiềm năng thuận lợi phát triển du lịch sinh thái, tuy nhiên các loại hình du lịch tại đây chưa đa dạng, còn hạn chế về kinh phí cũng như các ý tưởng trong mở rộng loại hình du lịch. Kết quả đề tài tạo cơ sở đưa ra các giải pháp hỗ trợ phát triển du lịch sinh thái bền vững, gắn với bảo tồn tài nguyên, cùng các mô hình nhằm thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái bền vững, gắn với bảo tồn tài nguyên ở khu di tích Tà Thiết.
Sự ô nhiễm đất có chứa dioxin là vô cùng độc hại và nguy hiểm đến tính mạng con người chủ yếu từ các hoạt động công nghiệp và các vết tích do chiến tranh để lại đã dấy lên sự nhức nhối nhiều năm qua trong các công tác quản lý, quy hoạch sử dụng đất và nhân lực lao động cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Ngoài ra, dioxin còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, đặc biệt là đối với môi trường đất và đáng lo ngại hơn là ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Nghiên cứu nhằm tổng quan chung về sự ô nhiễm dioxin trong đất tại Việt Nam và một số quốc gia trên Thế giới, đồng thời đề xuất các phương pháp xử lý hiệu quả nhằm góp phần hệ thống hóa cơ sở dữ liệu về dioxin và các phương pháp tối ưu đã, đang và sẽ được áp dụng trong xử lý dioxin trong môi trường đất.
Thái Bình là một tỉnh thuần nông nghiệp trồng lúa trọng điểm của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hàng năm, tỉnh gieo cấy khoảng 15.0000 ha lúa với sản lượng khoảng 1 triệu tấn/năm góp phần không nhỏ vào an ninh lương thực quốc gia. Tuy nhiên, cùng với xu hướng dịch chuyển cơ cấu cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như việc chuyển đổi đất trồng lúa sang các mục đích sử dụng khác và dưới tác động của biến đổi khí hậu, diện tích đất trồng lúa của tỉnh Thái Bình đang suy giảm nhanh trong những năm gần đây, trung bình suy giảm 470 ha/năm giai đoạn 2015-2020. Việc đánh giá được tốc độ suy giảm đất trồng lúa giúp các cơ quan tỉnh cũng như các nhà khoa học đưa ra được các định hướng và quy hoạch nhằm phát triển ổn định đất trồng lúa có tầm nhìn dài hạn bền vững.