
Mở đầu
Đào tạo, bồi dưỡng (ĐT, BD) là một trong những giải pháp căn bản để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức. Trong đó, ĐT, BD theo vị trí việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với công chức, vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây cũng là căn cứ để tuyển dụng, nâng ngạch và điều động công chức. ĐT, BD theo vị trí việc làm có những điểm khác biệt với những ưu thế riêng so với ĐT, BD theo cách truyền thống; là quá trình phát triển năng lực cho đội ngũ công chức, xây dựng và phát triển những năng lực mà một vị trí việc làm cần phải đáp ứng, tạo được sự thay đổi về chất trong toàn bộ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Nghị định số 101/2017/NĐ-CP về ĐT, BD cán bộ, công chức, viên chức quy định nguyên tắc trong bồi dưỡng cán bộ, công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; vị trí việc làm; gắn với công tác sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức, phù hợp với kế hoạch ĐT, BD và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị. Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 89/2021/NĐ-CP về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP đã quy định bồi dưỡng theo yêu cầu vị trí việc làm là một trong bốn hình thức bồi dưỡng được quy về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng và yêu cầu mới trong xây dựng và phát triển bền vững đất nước, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc cho đội ngũ công chức nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là nhiệm vụ trọng tâm được lãnh đạo Bộ TN&MT quan tâm. Để có căn cứ xây dựng và ban hành chương trình, tài liệu bồi dưỡng, việc điều tra, khảo sát nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng theo vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành cho đội ngũ công chức Bộ TN&MT là rất cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu
Phạm vi điều tra, khảo sát: Căn cứ vào tình hình thực tế về số lượng công chức ngạch chuyên viên chính về đất đai, môi trường; số lượng công chức ngạch chuyên viên về BĐKH, ĐĐ&BĐ, tổ điều tra, khảo sát đã thực hiện điều tra, khảo sát nhu cầu bồi dưỡng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho công chức Bộ TN&MT tại 4 đơn vị: Tổng cục Quản lý đất đai; Tổng cục Môi trường; Cục Đo đạc bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam và Cục BĐKH. Tổng số phiếu điều tra là 102 phiếu.
Nội dung phiếu khảo sát: Nội dung phiếu khảo sát gồm 4 phần: Thông tin chung; khảo sát về nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chung; khảo sát về nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành; khảo sát các yếu tố liên quan đến công tác tổ chức bồi dưỡng.
Nhóm tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thu thập tài liệu; phương pháp chuyên gia; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, tổng hợp.
Kết quả và thảo luận
Đặc điểm chung của đối tượng khảo sát: Nội dung khảo sát chung cho đối tượng khảo sát là công chức Bộ TN&MT thuộc các lĩnh vực đất đai; môi trường; ĐĐ&BĐ và BĐKH bao gồm: Trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, kỹ năng sử dụng ngoại ngữ, công nghệ thông tin và những nội dung bồi dưỡng tham gia trong 3 năm gần đây.
Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy trình độ chuyên môn sau đại học chiếm tỷ lệ cao. Cụ thể, đối với lĩnh vực môi trường chiếm 92%; lĩnh vực đất đai trình độ chuyên môn sau đại học chiếm 83,3%; lĩnh vực đo đạc là 73,3% và lĩnh vực BĐKH là 74,2%. Khả năng sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin ở mức trung bình và khá đối với lĩnh vực đất đai. Đối với lĩnh vực môi trường; ĐĐ&BĐ; BĐKH ở mức khá và tốt.
Hình 1 chỉ ra nội dung bồi dưỡng của các công chức tham gia trong 3 năm trở lại đây. Trong đó, đối với lĩnh vực đất đai, môi trường, tỷ lệ công chức ngạch chuyên viên chính đã tham gia về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước, chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ khá lớn. Tuy nhiên, phần kiến thức hội nhập quốc tế là không nhiều (Hình 1A, 1B).
Bảng 1. Một số thông tin chung về đối tượng khảo sát
Hình 1. Nội dung bồi dưỡng đã tham gia 3 năm gần đây của công chức (A) ngạch chuyên viên chính về đất đai, (B) ngạch chuyên viên chính về môi trường,
(C) ngạch chuyên viên về ĐĐ&BĐ, (D) ngạch chuyên viên về BĐKH
Số lượng công chức ngạch chuyên viên về lĩnh vực ĐĐ&BĐ (Hình 1C) được bồi dưỡng kiến thức về quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ; kiến thức về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ĐĐ&BĐ còn chưa nhiều.
Kết quả điều tra khảo sát đối với công chức ngạch chuyên viên về lĩnh vực BĐKH cho thấy kiến thức về quản lý chuyên ngành, chuyên môn, kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực BĐKH đã tham gia chiếm tỷ lệ lớn, song đối với kiến thức hội nhập quốc tế và đạo đức công vụ đối với lĩnh vực này còn khiêm tốn (Hình 1D).
Nhu cầu bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm của công chức Bộ TN&MT
Lĩnh vực đất đai: Nội dung khảo sát đối với công chức lĩnh vực đất đai được chia 2 phần (nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chung và kiến thức, kỹ năng chuyên ngành). Nhu cầu bồi dưỡng kiến thức chung về chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực đất đai và kỹ năng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai (tỷ lệ 56,7%; 60% ý kiến) được cho là rất cần thiết.
Nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành được quan tâm nhiều là nội dung về thông tin đất đai; cơ sở dữ liệu đất đai và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về đất đai (tỷ lệ 73,3%; 76,7% ý kiến). Điều này cho thấy, nhu cầu bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng gắn liền với hoạt động thực tế trong lĩnh vực này là rất lớn.
Lĩnh vực môi trường: Kết quả điều tra khảo sát theo yêu cầu vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành công chức ngạch chuyên viên chính về môi trường cho thấy nội dung kiến thức, kỹ năng tập trung chính vào sách và pháp luật của Nhà nước về môi trường (chiếm 68%), kỹ năng xây dựng văn bản pháp luật (chiếm 80%), kiến thức về xây dựng, thống kê, xây dựng, duy trì và vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về môi trường, báo cáo môi trường (chiếm 68%), kiến thức thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm về môi trường (chiếm 88%).
Lĩnh vực ĐĐ&BĐ: Nhu cầu bồi dưỡng lĩnh vực ĐĐ&BĐ tập trung vào kiến thức chung về chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ĐĐ&BĐ (chiếm 81,3%); kỹ năng xây dựng báo cáo chuyên ngành lĩnh vực ĐĐ&BĐ (chiếm 62,5%); kiến thức về quản lý chất lượng sản phẩm ĐĐ&BĐ; lưu trữ, cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm ĐĐ&BĐ (chiếm 75%); kiến thức về cấp phép, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về ĐĐ&BĐ (chiếm 81,3%).
Lĩnh vực BĐKH: Nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chung đối với lĩnh vực này khá tương đồng với lĩnh vực ĐĐ&BĐ. Nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành tập trung vào nội dung về thích ứng BĐKH (chiếm 74,2%) và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (chiếm 67,7%).
Một số yếu tố liên quan đến công tác tổ chức bồi dưỡng
Kết quả khảo sát một số yếu tố liên quan đến công tác tổ chức khóa bồi dưỡng cho thấy hình thức bồi dưỡng được lựa chọn nhiều nhất là trực tuyến/trực tiếp (chiếm 55,9%), thời lượng bồi dưỡng 05 ngày/khóa (chiếm 48%) và nên tổ chức 01 lần/năm (chiếm 60,8%).
Kết luận
Với số phiếu phát ra là 102 phiếu cho các đối tượng khảo sát là công chức Bộ TN&MT (lĩnh vực đất đai; môi trường; đo đạc và bản đồ; BĐKH đều có trình độ chuyên môn cao (sau đại học). Kỹ năng ngoại ngữ và công nghệ thông tin ở mức khá đến tốt, riêng lĩnh vực đất đai ở mức trung bình đến khá.
Về nội dung kiến thức, kỹ năng chung: Tập trung chủ yếu đến liên quan đến chính sách và pháp luật của Nhà nước; kỹ năng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cho lĩnh vực đất đai, môi trường; kỹ năng xây dựng báo cáo chuyên ngành về lĩnh vực biến đổi khí hậu, ĐĐ&BĐ.
Về nội dung kiến thức, kỹ năng chuyên môn: Tập trung đến thông tin, cơ sở dữ liệu; thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý vi phạm pháp luật đối với lĩnh vực đất đai và lĩnh vực môi trường. Lĩnh vực ĐĐ&BĐ tập trung vào nội dung về quản lý chất lượng sản phẩm ĐĐ&BĐ; quản lý chất lượng phương tiện đo được sử dụng trong hoạt động ĐĐ&BĐ; lĩnh vực BĐKH tập trung vào nội dung về thích ứng BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Hình thức tổ chức bồi dưỡng trực tiếp/trực tuyến. Thời lượng khóa học nên tiến hành trong 5 ngày. Tần suất tổ chức 1 lần/năm. Điều này phù hợp với quy định tại Nghị định số 89/2021/NĐ-CP: “thời gian thực hiện tối thiểu 1 tuần (40 tiết)/năm, tối đa 04 tuần (160 tiết)”.
Lời cảm ơn
Bài báo này được thực hiện trên cơ sở của Đề tài NCKH cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng theo vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành của công chức Bộ TN&MT”. Mã số: TNMT.2020.10.04.
NGUYỄN ĐỨC TOÀN1, NGUYỄN THỊ HẢI YẾN2,
THÁI THỊ THANH MINH2, BÙI THỊ HẰNG1, DƯƠNG THU HÀ1
1 Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tài nguyên và môi trường
2 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội