
Bài 1: Cam kết toàn cầu và lộ trình giảm phát thải mê-tan của Việt Nam
27/09/2025TN&MTTrong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, khí mê-tan, loại khí nhà kính có sức nóng gấp 28 lần CO₂ - đang trở thành tâm điểm trong các nỗ lực toàn cầu. Việt Nam, cùng hơn 150 quốc gia, đã tham gia Cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu (Global Methane Pledge) với mục tiêu cắt giảm ít nhất 30% vào năm 2030 so với mức năm 2020. Bên lề Hội thảo “Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan” tổ chức ngày 25/9/2025 tại Hà Nội, nhiều chuyên gia và nhà quản lý đã chia sẻ về lộ trình hành động, những thách thức cũng như cơ hội để Việt Nam thực hiện thành công cam kết này.
Giảm phát thải mê-tan trong chất thải là “đòn bẩy” cắt phát thải nhanh, chi phí hiệu quả nếu chuyển dứt khoát khỏi chôn lấp, song hành phân loại tại nguồn, tái chế - compost, và điện rác/thu hồi khí. Khung 942/QĐ-TTg đã nêu rõ mục tiêu và công cụ; việc của địa phương và doanh nghiệp là đi đúng lộ trình 2025 - 2030, đưa các dự án then chốt vào vận hành, bảo đảm MRV minh bạch - để mục tiêu ≤ 17,5 triệu tấn CO₂tđ từ chất thải đến 2030 không chỉ là con số trên giấy.
Khí mê-tan, mối lo toàn cầu
Trong số các loại khí nhà kính, khí mê-tan (CH₄) nổi bật không chỉ bởi mức độ nguy hại mà còn bởi tính chất đặc biệt của nó. Khác với CO₂ - tồn tại rất lâu trong khí quyển (tới hàng trăm năm), mê-tan có vòng đời ngắn hơn, trung bình chỉ khoảng 12 năm, nhưng lại có tiềm năng làm nóng toàn cầu (GWP) cao gấp 28 lần CO₂ trong chu kỳ 100 năm và tới 80 lần trong chu kỳ 20 năm. Chính vì vậy, các nhà khoa học coi mê-tan là “đòn bẩy nhanh” để kìm hãm tốc độ nóng lên toàn cầu trong ngắn hạn.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ sáu (AR6) của IPCC, nồng độ mê-tan trong khí quyển hiện đã tăng hơn 150% so với thời kỳ tiền công nghiệp, chủ yếu đến từ hoạt động của con người, nông nghiệp, khai thác nhiên liệu hóa thạch và quản lý chất thải. Năm 2021, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) ước tính lượng phát thải mê-tan toàn cầu đạt khoảng 570 triệu tấn, trong đó năng lượng chiếm 40%, nông nghiệp 40% và chất thải 20%.
Điều đáng lo ngại là mê-tan hiện đóng góp khoảng 0,3°C trong tổng mức tăng 1,1°C nhiệt độ trung bình toàn cầu so với thời kỳ tiền công nghiệp. Nếu không có hành động quyết liệt, lượng phát thải mê-tan có thể tiếp tục gia tăng, khiến nhân loại khó đạt mục tiêu khống chế nhiệt độ tăng dưới 1,5°C theo Thỏa thuận Paris.
TS. Lương Quang Huy, Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-dôn, Cục Biến đổi khí hậu phát biểu
TS. Lương Quang Huy, chuyên gia của Cục Biến đổi khí hậu đã phân tích tại Hội thảo “Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan” tổ chức ngày 25/9/2025 tại Hà Nội: “Nếu chúng ta giảm mạnh phát thải mê-tan ngay từ bây giờ, thế giới có thể tránh được mức tăng thêm 0,2°C vào năm 2050. Đây là khoảng thời gian quý giá để vừa giảm nhiệt độ ngắn hạn, vừa duy trì dư địa cho nỗ lực giảm phát thải CO₂ lâu dài”.
Tính cấp bách này là lý do cộng đồng quốc tế đã khởi xướng Cam kết toàn cầu về khí mê-tan (Global Methane Pledge) tại Hội nghị COP26. Sáng kiến do Mỹ và EU dẫn dắt đã nhanh chóng thu hút hơn 150 quốc gia tham gia, chiếm gần 50% lượng phát thải mê-tan toàn cầu và 70% GDP toàn cầu. Mục tiêu chung là cắt giảm ít nhất 30% phát thải vào năm 2030 so với mức năm 2020.
Như vậy, trong bức tranh khí hậu toàn cầu, mê-tan không chỉ là một mối lo ngắn hạn, mà còn là “nút thắt” chiến lược. Giảm phát thải mê-tan chính là một trong những giải pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giữ mục tiêu 1,5°C còn trong tầm tay.
Trong bức tranh toàn cầu đó, Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc. Là một quốc gia nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và sinh kế gắn liền với trồng lúa, chăn nuôi, Việt Nam phát thải lượng mê-tan đáng kể từ canh tác nông nghiệp, cùng với đó là từ hoạt động khai thác than, dầu khí và quản lý chất thải đô thị. Theo kiểm kê khí nhà kính, nông nghiệp chiếm trên một nửa tổng phát thải mê-tan quốc gia, kế đến là năng lượng và chất thải.
Trong bối cảnh vừa chịu áp lực quốc tế, vừa chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu, đặc biệt là thiên tai, xâm nhập mặn, hạn hán, việc tham gia Cam kết toàn cầu về khí mê-tan không chỉ là một bước đi ngoại giao khí hậu quan trọng, mà còn là nhu cầu tự thân của Việt Nam. Bằng cách kiểm soát và giảm phát thải mê-tan, chúng ta không chỉ góp phần giữ mục tiêu toàn cầu 1,5°C, mà còn mở ra cơ hội cải thiện chất lượng môi trường, nâng cao sức khỏe cộng đồng và tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Từ những lý do đó, tại COP26, Việt Nam đã chính thức cùng hơn 150 quốc gia ký tham gia Global Methane Pledge, cam kết giảm ít nhất 30% phát thải vào năm 2030 so với 2020. Đây chính là nền tảng cho những bước đi cụ thể trong thời gian tới.
Việt Nam trong Cam kết toàn cầu
Tham gia Cam kết toàn cầu về khí mê-tan thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong việc hiện thực hóa các mục tiêu của Thỏa thuận Paris và cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cũng tại Hội thảo ngày 25/9, bà Mai Kim Liên, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, khẳng định: “Đây không chỉ là nghĩa vụ quốc tế, mà còn là cơ hội để Việt Nam cải thiện chất lượng môi trường, nâng cao sức khỏe cộng đồng và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia. Giảm phát thải mê-tan đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả sản xuất, tiết kiệm tài nguyên và tạo thêm giá trị kinh tế từ chính những gì trước đây vốn bị coi là chất thải”.
Theo kế hoạch, Việt Nam đặt mục tiêu giảm ít nhất 30% lượng phát thải mê-tan vào năm 2030 so với năm 2020. Để đạt được điều đó, Cục Biến đổi khí hậu được giao vai trò điều phối, xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về giảm phát thải mê-tan, tích hợp vào các chiến lược lớn như Chiến lược Tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, cũng như các quy hoạch ngành.
Khí mê-tan của Việt Nam tập trung ở ba lĩnh vực chủ chốt: nông nghiệp, chất thải, và năng lượng. Nông nghiệp hiện chiếm hơn 50% tổng phát thải mê-tan của Việt Nam, trong đó canh tác lúa và chăn nuôi là hai nguồn chính. PGS.TS. Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Nông nghiệp Môi trường, cho biết: “Ruộng lúa ngập nước liên tục tạo điều kiện yếm khí, dẫn tới phát thải mê-tan cao. Việc áp dụng kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ có thể giúp giảm 30-40% phát thải mê-tan, đồng thời tiết kiệm nước tưới và nâng cao hiệu quả canh tác”.
Trong chăn nuôi, lượng chất thải khổng lồ từ đàn lợn, bò, gia cầm nếu không được xử lý sẽ phát sinh mê-tan. TS. Lê Thị Thanh Huyền, Viện Chăn nuôi, nhấn mạnh: “Giải pháp xây dựng và sử dụng hầm biogas không chỉ giảm phát thải mê-tan mà còn mang lại nguồn năng lượng sạch cho hộ chăn nuôi, giúp tiết kiệm chi phí.”
Trong lĩnh vực chất thải, bãi chôn lấp rác và hệ thống nước thải đô thị là nguồn phát thải lớn. TS. Lương Quang Huy cho biết: “Nếu triển khai công nghệ điện rác, tận thu khí từ bãi chôn lấp, đồng thời cải thiện hệ thống xử lý nước thải, chúng ta có thể cắt giảm đáng kể lượng phát thải mê-tan, đồng thời tạo nguồn điện năng tái tạo cho xã hội”.
Phát thải mê-tan trong năng lượng tập trung vào khai thác than và khai thác, chế biến dầu khí. Theo báo cáo của ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương): “Ngành than đã phát thải khoảng 3.458 GgCO₂tđ mê-tan trong năm 2020, chủ yếu từ các mỏ hầm lò. Nếu không có biện pháp, con số này có thể lên tới 4.800 GgCO₂tđ vào 2030. Tuy nhiên, với giải pháp khoan tháo khí, thu hồi và tận dụng khí mê-tan, có thể giảm tới 42% so với năm 2020”.
Trong dầu khí, nguồn phát thải lớn đến từ xả khí, rò rỉ tại van, mặt bích và đốt bỏ khí. Các giải pháp như chương trình phát hiện và sửa chữa rò rỉ (LDAR), hạn chế đốt bỏ, và thu hồi khí đồng hành có thể giúp giảm khoảng 22% phát thải vào năm 2030.
Thách thức trên hành trình giảm phát thải
Dù có tiềm năng giảm lớn, hành trình thực hiện cam kết mê-tan của Việt Nam vẫn đối mặt nhiều thách thức. TS. Lương Quang Huy chỉ rõ: “Khó khăn lớn nhất nằm ở nguồn lực tài chính và công nghệ. Nhiều giải pháp hiện đại có chi phí cao, trong khi khả năng đầu tư của nông dân, doanh nghiệp còn hạn chế”. Bên cạnh đó, việc thay đổi tập quán sản xuất, đặc biệt trong nông nghiệp, cũng không hề đơn giản. Nông dân đã quen với phương thức canh tác truyền thống, việc áp dụng kỹ thuật mới cần thời gian, đào tạo và hỗ trợ cụ thể. Ngoài ra, hệ thống kiểm kê, giám sát, báo cáo phát thải (MRV) đối với mê-tan cũng cần được nâng cấp để đảm bảo minh bạch, chính xác, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Để vượt qua những thách thức đó, Việt Nam cần tranh thủ tối đa cơ chế hợp tác quốc tế. Trong Cam kết toàn cầu về khí mê-tan, các quốc gia được khuyến khích hỗ trợ lẫn nhau về công nghệ, tài chính và năng lực.
Bà Mai Kim Liên khẳng định: “Chúng tôi coi việc tham gia Cam kết mê-tan toàn cầu là cơ hội để tiếp cận các nguồn tài chính khí hậu, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quốc tế. Đây sẽ là đòn bẩy để Việt Nam đẩy nhanh tiến trình giảm phát thải, đồng thời đảm bảo công bằng và bền vững trong quá trình chuyển đổi”.
Từ những chia sẻ tại hội thảo, có thể thấy lộ trình giảm phát thải mê-tan của Việt Nam là một hành trình nhiều thách thức nhưng cũng đầy triển vọng. Mỗi lĩnh vực, từ nông nghiệp, chất thải đến năng lượng đều có giải pháp cụ thể, tiềm năng cắt giảm rõ ràng. Điều quan trọng là cần một cơ chế điều phối thống nhất, sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng.
Như thông điệp bà Mai Kim Liên gửi gắm: “Giảm phát thải mê-tan vừa là trách nhiệm, vừa là cơ hội. Nếu toàn xã hội cùng chung tay hành động, chúng ta không chỉ thực hiện được cam kết quốc tế, mà còn kiến tạo một tương lai xanh và thịnh vượng hơn cho Việt Nam”.
Ở nơi mê-tan thoát ra nhiều nhất cũng là nơi lợi ích kép xuất hiện rõ nhất: AWD (kỹ thuật tưới ngập - khô xen kẽ) giúp giảm 30-40% phát thải trên ruộng lúa, biogas biến chất thải chăn nuôi thành năng lượng, còn rác hữu cơ trở lại chu trình dưới dạng compost hay điện-rác. Bài 2, Tạp chí Nông nghiêp và Môi trường sẽ giới thiệu các mô hình đã chứng minh hiệu quả và hướng nhân rộng ngay tại địa phương và gợi mở một số giải pháp giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và quản lý chất thải.
Hồng Minh