Vùng nông thôn chiếm phần lớn diện tích đất nước nên việc xử lý rác thải sinh hoạt từ các cộng đồng dân cư là nhiệm vụ cấp bách bao lâu nay, để xử lý tình trạng ô nhiễm khỏi diễn biến trầm trọng hơn.
Thay vì thu tiền xử lý rác thải theo bình quân đầu người như hiện nay, các cá nhân, hộ gia đình càng xả nhiều rác sẽ phải trả nhiều tiền hơn theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường 2020.
Ngày 10/12 tại Hà Nội, Báo Điện tử VTC News phối hợp với Ban Quản lý dự án về “Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương” tại Việt Nam, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) tổ chức Tập huấn với chủ đề: “Nâng cao năng lực truyền thông báo chí trong quản lý rác thải nhựa”
Tại xã Tân Thuận Đông, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) TP Cao Lãnh và Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố vừa phối hợp tổ chức ra mắt mô hình “Ngôi nhà xanh - Biến rác thải thành tiền”.
Cần Giờ là một huyện duy nhất của TP. Hồ Chí Minh giáp biển, nằm phía Đông Nam của Thành phố và cách trung tâm của Thành phố 50 km, đóng vai trò quan trọng với việc sở hữu khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ được UNESCO công nhận. Hiện nay, một trong những vấn đề quan trọng về môi trường có liên quan đến dân cư trong khu vực chính là việc quản lý cũng như giảm thiểu rác thải sinh hoạt.
Thực tế xây dựng pháp luật về biến đổi khí hậu đã được đặt ra trước đây, tuy nhiên do bối cảnh, thời điểm đề xuất xây dựng luật liên quan đến lĩnh vực này chưa phù hợp, nên các nghiên cứu toàn diện, tổng thể, chuyên sâu phục vụ xây dựng pháp luật biến đổi khí hậu chậm được triển khai. Cho đến nay, chưa có một đạo luật riêng để quản lý về biến đổi khí hậu ở Việt Nam, hơn nữa vấn đề biến đổi khí hậu đang trở nên cấp bách, do đó, nhu cầu cấp thiết có một văn bản pháp lý riêng biệt để quản lý. Bài viết này sẽ tập trung, làm rõ những nội dung cần được quy định trong Luật Biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, với chủ trương đảm bảo Nghị định khi được ban hành sẽ được thực thi thuận lợi và đầy đủ, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường. EPR giúp doanh nghiệp định hướng hoạt động sản xuất sạch hơn, sản phẩm thân thiện với môi trường. Do đó, doanh nghiệp nên nắm bắt xu hướng để chủ động tạo ra lợi thế cho các sản phẩm của mình.
Theo Chương trình Môi trường Liên hợp Quốc (UNEP - 2018), Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng rác thải nhựa xả ra biển nhiều nhất trên thế giới, với khối lượng rác thải nhựa xả ra biển khoảng 0,28 - 0,73 triệu tấn/năm, tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa ra biển trên toàn thế giới. Việt Nam xếp thứ tư trong danh sách những nước làm phát sinh ô nhiễm nhựa biển trên toàn thế giới, sau Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Rác thải nhựa đại dương là vấn đề mới, việc triển khai thực hiện công tác quản lý còn rất nhiều khó khăn; bên cạnh đó, chúng ta chưa có quy định cụ thể về phạm vi, đối tượng, phương pháp điều tra, thống kê rác thải nhựa đại dương; đặc biệt trong việc ban hành, tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách và giám sát toàn diện các vấn đề có liên quan.
Hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tiếp tục nghiên cứu kỹ, tham mưu Ban soạn thảo để chỉnh sửa hoàn thiện dự thảo Nghị định, với chủ trương là đúng tinh thần của Luật BVMT 2020; đảm bảo Nghị định khi được ban hành sẽ được thực thi thuận lợi và đầy đủ, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường. EPR giúp doanh nghiệp định hướng hoạt động sản xuất sạch hơn, sản phẩm thân thiện với môi trường hơn. Do đó, doanh nghiệp nên nắm bắt xu hướng để chủ động tạo ra lợi thế cho các sản phẩm của mình.
Ô nhiễm nhựa đại dương là một vấn đề toàn cầu, xuyên biên giới và liên ngành, đòi hỏi phải có sự hợp tác, chia sẻ trách nhiệm giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới để giảm thiểu ô nhiễm rác thải nhựa. Chung tay cùng với thế giới, Việt Nam đã đưa ra các cam kết, sáng kiến nhằm nỗ lực giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa; thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế biển. Đặc biệt, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ÔNNĐD, thể hiện vai trò tích cực của Việt Nam, tiên phong trong khu vực về ngăn chặn, giảm thiểu ÔNNĐD. Đồng hành cùng Việt Nam, Bộ TN&MT là Tổ chức quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF).
Những năm qua, việc xây dựng phương án bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trên địa bàn tỉnh Bình Thuận không chỉ đảm bảo một môi trường tự nhiên trong sạch, lành mạnh mà còn phục vụ cho việc phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thích ứng với biến đổi khí hậu những năm gần đây được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo, với nhiều chủ trương, chính sách phát triển để phát huy tiềm năng, lợi thế tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Các địa phương đều thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp với điều kiện tự nhiên và lợi thế tự nhiên của vùng.
Những năm gần đây, với sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của chính quyền các cấp, sự chủ động của người dân, các tổ chức, cá nhân, cộng đồng công tác phòng chống thiên tai đã có những chuyển biến tích cực. Người dân đã chủ động ứng phó với bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lũ, ngập lụt,… đảm bảo an toàn tàu thuyền, lồng bè nuôi trồng thủy hải sản và sơ tán đến nơi an toàn,… nhờ đó giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản.
Quá trình tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ra tổn hại tới môi trường biển, có thể phát sinh từ các hóa chất sử dụng để thăm dò, khai thác; các chất thải độc hại thải vào môi trường hay từ các sự cố tràn dầu trong quá trình vận chuyển,… Do vậy, các hoạt động khai thác này phải gắn với nguyên tắc phát triển bền vững.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại tỉnh Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mạng lưới thu gom chất thải rắn sinh hoạt chưa được bao phủ lên các khu vực dân cư tập trung. Tại các khu vực có hệ thống thu gom, hiệu quả thu gom trung bình chỉ đạt 78,56%; chất thải rắn sinh hoạt sau khi thu gom mới chỉ được xử lý chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp, nhà máy xử lý chất thải rắn vẫn chưa phát điện, vì vậy khối lượng chôn lấp sau xử lý vẫn chiếm trên 50% lượng rác đưa đến nhà máy. Để nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn phù hợp với điều kiện Quảng Bình, nhóm nghiên cứu đề xuất thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý hệ thống thu gom nhằm tối ưu hóa hoạt động của các phương tiện thu gom, mặt khác về dài hạn cần triển khai thực hiện phân loại rác tại nguồn nhằm làm giảm áp lực cho các khu xử lý chất thải, trang bị thêm các công nghệ xử lý đồng hành với hoạt động xử lý rác thành điện năng để làm đ
Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Công ty TNHH Nestlé Việt Nam vừa ký kết Thỏa thuận hợp tác về tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường và thúc đẩy quản lý bao bì bền vững.
Theo Báo cáo tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, dự kiến đến năm 2030, Việt Nam có khả năng sẽ đạt được cả 3 mục tiêu cụ thể thuộc mục tiêu phát triển bền vững số 13 về các hành động bảo vệ khí hậu.