
Quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu
Trách nhiệm mở rộng của Nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility – EPR) được thể chế hoá trong Chương quy định về trách nhiệm tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu là quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Chương VII dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật bảo vệ môi trường 2020. Dự thảo Nghị định đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ và Bộ Tài nguyên và Môi trường để lấy ý kiến nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp để tiếp tục hoàn thiện.
Theo dự thảo Nghị định, hai nhóm đối tượng phải thực hiện trách nhiệm mở rộng gồm: Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì quy định tại Phụ lục 52 ban hành kèm theo Nghị định là đối tượng thực hiện trách nhiệm tái chế; nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì quy định tại Phụ lục 58 là đối tượng phải đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường để hỗ trợ các hoạt động xử lý chất thải. Quy định này chỉ áp dụng đối với các sản phẩm, bao bì được sản xuất, nhập khẩu để bán, tiêu dùng và thải bỏ tại Việt Nam; không áp dụng đối với sản phẩm, bao bì xuất khẩu hoặc tạm nhập tái xuất.
Các sản phẩm quy định tại Phụ lục 52 là một số sản phẩm thuộc các ngành hàng điện, điện tử; pin- ắc quy; dầu nhớt; săm lốp; phương tiện giao thông và máy móc công trình; bao bì các loại. Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu được lựa chọn 02 hình thức để thực hiện trách nhiệm tái chế của mình là tổ chức tái chế (ở hình thức này nhà sản xuất có 3 lựa chọn bao gồm: tự tổ chức tái chế, thuê đơn vị tái chế có đủ điều kiện, ủy quyền cho bên thứ ba tổ chức tái chế; nếu không lựa chọn hình thức thứ nhất thì có thể lựa chọn hình thức đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Phương pháp xác định tỷ lệ tái chế và số tiền đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được dự thảo Nghị định được cân nhắc xác định từ kinh nghiệm khoa học quốc tế được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn bối cảnh của Việt Nam.
Các sản phẩm quy định tại Phụ lục 58 gồm một số sản phẩm thuộc ngành hàng: bao bì chứa thuốc bảo vệ thực vật, diệt côn trùng, hóa chất khử trùng, hóa chất tẩy các loại; tã lót, bỉm, băng vệ sinh, khăn ướt dùng một lần; kẹo cao su; thuốc lá; sản phẩm, bao bì sử dụng nhựa như một thành phần nguyên liệu. Trên thực tế, việc thu gom nhóm sản phẩm này số lượng lớn đủ cho tái chế là chưa khả thi tại thời điểm này nên nhà sản xuất, nhà nhập khẩu phải đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ các hoạt động xử lý chất thải. Mức đóng góp theo định mức do Nghị định quy định căn cứ vào lượng sản phẩm hàng hóa đưa ra thị trường. Quỹ Bảo vệ Môi trường sử dụng khoản thu được để hỗ trợ các hoạt động: Thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân; Nghiên cứu, phát triển công nghệ, kỹ thuật, sáng kiến xử lý chất thải rắn sinh hoạt; Thu gom, vận chuyển, xử lý bao bì chứa thuốc bảo vệ thực vật.
Ảnh minh họa
Tỷ lệ tái chế bắt buộc và đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường được quyết định bởi Hội đồng EPR Quốc gia với các thành viên là đại diện các cơ quan quản lý có liên quan, đại diện cho từng nhóm nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có trách nhiệm tái chế, đại diện các doanh nghiệp tái chế, các tổ chức môi trường và bảo vệ người tiêu dùng. Căn cứ vào đề nghị của Hội đồng EPR Quốc gia, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tỷ lệ tái chế bắt buộc và định mức chi phí tái chế áp dụng theo từng giai đoạn.
Văn phòng EPR Việt Nam là cơ quan giúp việc của Hội đồng EPR Quốc gia, có trách nhiệm điều phối và hỗ trợ các nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện trách nhiệm mở rộng.
Doanh nghiệp cần chuẩn bị những gì
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng EPR không phải là quy định mới ở Việt Nam. Vấn đề này được đưa vào Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và 5 nhóm ngành hàng là pin và ắc quy, điện và điện tử; săm lốp, dầu nhờn, ô tô và xe máy hiện đang là đối tượng thực hiện EPR theo Quyết định 16/2015/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về thu hồi sản phẩm thải bỏ. Quy định hiện nay không đặt ra tỷ lệ tái chế bắt buộc nên các doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm để tuân thủ chứ doanh nghiệp đã có thời gian khá dài để thực hiện trách nhiệm của mình. Thêm nữa, nhiều nhà sản xuất, nhập khẩu là các doanh nghiệp FDI cũng đã có sẵn kinh nghiệm ở các quốc gia khác và sẵn sàng cho việc thực hiện EPR.
Việc xây dựng quy định EPR đã được Vụ Pháp chế, Bộ TN&MT cùng với sự đồng hành hỗ trợ của Tổ chức WWF nên chương trình đã được khởi động từ rất sớm, với sự tham gia chặt chẽ, tích cực và chủ động của các ngành hàng, các hiệp hội doanh nghiệp và các chuyên gia trong và ngoài nước ngay từ năm 2019. Đặc biệt dự thảo đã đề nghị các nhóm ngành hàng đề xuất tỷ lệ tái chế, định mức tái chế và quy cách tái chế để có cơ sở xây dựng dự thảo Nghị định, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và bảo đảm tính khả thi của quy định. Các ngành hàng đã tích cực tham gia xây dựng dự thảo Nghị định cũng như đề xuất tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế và đóng góp tài chính. Điều này thể hiện sự chủ động, sẵn sàng nhất định của cộng đồng doanh nghiệp trong thực hiện quy định về EPR.
Dự thảo Nghị định đưa ra lộ trình cho việc thực hiện trách nhiệm tái chế, xử lý của nhà sản xuất, nhập khẩu với mức độ yêu cầu tái chế sẽ tăng dần để đảm bảo doanh nghiệp có khả năng thích nghi dần. Để thực hiện EPR, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có trách nhiệm báo cáo thông tin dự kiến về số lượng, khối lượng, chủng loại của từng sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu vào năm sau để có cơ sở thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu. Sau khi thực hiện EPR, doanh nghiệp báo cáo có kiểm toán số liệu thực tế để xác định việc hoàn thành nghĩa vụ của mình. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các doanh nghiệp thường uỷ quyền cho một Tổ chức thực hiện Trách nhiệm của Nhà sản xuất (Producer Responsibility Organization – PRO) để tối ưu hoá chi phí cho việc vận hành và báo cáo của mình. Ở Việt Nam, Liên minh Tái chế bao bì (PRO Việt Nam) là một ví dụ về tổ chức này đã được thành lập để đón đầu và hỗ trợ các thành viên trong liên minh thực hiện nghĩa vụ EPR khi quy định có hiệu lực pháp luật. Với dự thảo này hi vọng các nhóm ngành hàng, doanh nghiệp có nghĩa vụ khác cũng nên cân nhắc mô hình thực hiện EPR theo nhóm/ tập thể để giảm gánh nặng chi phí và hành chính. Mô hình này chính là lựa chọn uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện tái chế trong dự thảo Nghị định.
Mục tiêu của EPR là tác động làm thay đổi thói quen của nhà sản xuất, nhà nhâp trong sử dụng nguyên liệu và thiết kế sản phẩm để có thể giảm dần và tối ưu hóa chi phí thu gom cũng như tái chế sản phẩm, bao bì sau sử dụng. Như vậy, nhà sản xuất, nhập khẩu cũng nên cân nhắc việc thay đổi các thiết kế sản phẩm, lựa chọn sản phẩm nhập khẩu theo hướng sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường hơn để giảm thiểu chi phí thực hiện EPR trong tương lai. Nói cách khác, EPR là công cụ hỗ trợ cho các nhà sản xuất sản xuất sạch hơn, thân thiện môi trường hơn có lợi thế cạnh tranh tốt hơn ở Việt Nam.
Mong muốn của doanh nghiệp
Quy định Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) là vấn đề được nhiều tổ chức, doanh nghiệp đặc biệt quan tâm, góp ý, bởi chính sách này có tác động trực tiếp đến việc sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong tương lai gần. Theo đó, các doanh nghiệp góp ý trực tiếp về các nội dung: Đối tượng phải thực hiện trách nhiệm mở rộng, quy định đóng góp tài chính, Văn phòng EPR Việt Nam, Hội đồng EPR Quốc gia; thời hạn, lộ trình thực hiện trách nhiệm…
Ông Nguyễn Hồng Uy – đại diện Amcham cho rằng, việc thực hiện EPR là cần thiết, song cần xác định lại quy cách tái chế và tỷ lệ tái chế để đưa ra quy định phù hợp với thực tế công nghệ ở Việt Nam. Về quy định đóng góp tài chính nếu doanh nghiệp không thể tự thực hiện tái chế, cần có sự tham gia của Bộ Tài chính để xác định mức phí đóng, đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp.
Nêu thực trạng doanh nghiệp Việt hiện nay, ông Uy cho hay, từ đầu năm đến nay, đã có khoảng 85.000 doanh nghiệp phải đóng cửa vì dịch covid-19, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ. Trong bối cảnh đó, ông Uy đề nghị xem xét giãn lộ trình thực hiện EPR, để đảm bảo cả nước đã đi qua đại dịch và nền kinh tế được phục hồi. “Thêm vào đó, trách nhiệm bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung, các chủ thể tuân thủ theo cùng nguyên tắc giống nhau, vì vậy, quy định áp dụng EPR cũng cần được triển khai công bằng với tất cả doanh nghiệp”, ông Uy đề xuất.
Chung quan điểm với ông Nguyễn Hồng Uy về tính công bằng khi áp dụng EPR ở doanh nghiệp ở mọi quy mô, song đại diện Liên minh không rác Việt Nam lại đề nghị, không lùi thời gian thực hiện EPR, bởi những doanh nghiệp khó khăn sẽ được hưởng các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước; và đây cũng là cơ hội để khuyến khích doanh nghiệp chuyển từ bao bì khó phân hủy sang dễ phân hủy, tạo động cơ để các nhà sản xuất thay đổi công nghệ thân thiện với môi trường.
Về phía Bộ TN&MT, đại diện Vụ Pháp chế thông tin, cơ quan soạn thảo đã nghiên cứu kỹ lưỡng các ý kiến góp ý, đã tiếp thu, chỉnh lý các nội dung trong Dự thảo Nghị định như: chỉnh lý cho phép nhà sản xuất được lựa chọn đồng thời nhiều hình thức tái chế; làm rõ hơn các hệ số trong công thức xác định tỷ lệ tái chế, xác định mức đóng góp tài chính; sửa đổi quy cách tái chế theo hướng cho phép nhà tái chế có nhiều lựa chọn quy cách tái chế; quy định rõ mức sàn để xác định nhà sản xuất, nhập khẩu có nghĩa vụ đóng góp tài chính; chỉnh lý quy định về xử lý vi phạm cho phù hợp.
Đặc biệt, đã bỏ quy định về hải quan không thông quan hàng hoá khi nhà sản xuất, nhập khẩu chậm, trốn nộp; tăng thời hạn đăng ký kế hoạch tái chế và thời hạn đóng góp tài chính. Quy định rõ việc công khai, minh bạch trong tiếp nhận, sử dụng đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT; sửa đổi quy định về cung cấp thông tin sản phẩm, bao bì bằng các hình thức thay thế khác như QR code; làm rõ hơn vị trí, vai trò của Hội đồng EPR quốc gia và Văn phòng EPR Việt Nam;…
Đại diện Tổ chức WWF cho rằng: Các tiêu chí về kinh tế tuần hoàn đưa trong dự thảo Nghị định là hoàn toàn phù hợp, tuy nhiên, cần cân nhắc lộ trình thực hiện, nhất là khi đưa các ngành hàng cụ thể để áp dụng mô hình này.
Đề cập đến ngành sản xuất, nhập khẩu ô tô, xe máy, đại diện Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam và Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam góp ý, để có được hệ thống tái chế ô tô/xe máy lý tưởng và bền vững, điểm mấu chốt là tất cả các bên liên quan như Nhà nước, Nhà sản xuất, Nhà phân phối, Người dùng và Cơ sở tái chế phải có vai trò và trách nhiệm cụ thể trong bức tranh tổng thể về hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn bền vững.
Theo Tổ Biên tập, đến nay, Dự thảo Nghị định quy định 4 nhóm tiêu chí tiêu chí thực hiện kinh tế tuần hoàn mang tính bao quát nhất, phù hợp với khái niệm của Luật BVMT (khoản 1, Điều 142) và kinh nghiệm quốc tế. Các tiêu chí cụ thể (chỉ tiêu, chỉ số) sẽ được xác định trong kế hoạch hành động quốc gia; kế hoạch hành động của ngành, lĩnh vực; các hướng dẫn áp dụng kinh tế tuần hoàn đối với dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, khu đô thị, khu dân cư tập trung; dự án đầu tư, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ.
Về lộ trình thực hiện kinh tế tuần hoàn, Dự thảo Nghị định đã có sự tiếp thu, chỉnh sửa lộ trình theo các giai đoạn cụ thể gắn với nội dung và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Phương Minh