Bài học kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị chính sách đối với Việt Nam về quản lý rác thải nhựa đại dương

Thứ năm, 9/12/2021, 16:29 (GMT+7)
logo Theo Chương trình Môi trường Liên hợp Quốc (UNEP - 2018), Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng rác thải nhựa xả ra biển nhiều nhất trên thế giới, với khối lượng rác thải nhựa xả ra biển khoảng 0,28 - 0,73 triệu tấn/năm, tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa ra biển trên toàn thế giới. Việt Nam xếp thứ tư trong danh sách những nước làm phát sinh ô nhiễm nhựa biển trên toàn thế giới, sau Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Rác thải nhựa đại dương là vấn đề mới, việc triển khai thực hiện công tác quản lý còn rất nhiều khó khăn; bên cạnh đó, chúng ta chưa có quy định cụ thể về phạm vi, đối tượng, phương pháp điều tra, thống kê rác thải nhựa đại dương; đặc biệt trong việc ban hành, tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách và giám sát toàn diện các vấn đề có liên quan.

Chính sách, hành động của quốc tế đối với vấn đề rác thải nhựa đại dương

Liên hợp quốc đã đề ra Chương trình Nghị sự phát triển bền vững (PTBV) đến năm 2030 gồm 17 mục tiêu toàn cầu, với trọng tâm là xóa đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, các hệ sinh thái của Trái đất và đảm bảo thịnh vượng cho tất cả mọi người. Tầm quan trọng của các đại dương cho phát triển bền vững PTBV được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi và được thể hiện tại Mục tiêu số 14 (Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để PTBV). Rác thải nhựa đại dương (RTNĐD) (Mục tiêu 14.1) được xem là vấn đề đầu tiên trong số 10 vấn đề của Mục tiêu số 14. Chính sách của Hội đồng môi trường Liên hợp quốc (UNEA) đối với vấn đề RTNĐD là cụ thể hóa và thúc đẩy các quốc gia, tổ chức thực hiện được Mục tiêu 14.1. Trải qua 4 kỳ họp, ngay từ kỳ họp đầu tiên và mỗi kỳ họp sau này, UNEA đều có mục riêng hoặc thống nhất đưa ra những nghị quyết riêng về vấn đề RTNĐD và hạt vi nhựa.

Bài học kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị chính sách đối với Việt Nam về quản lý rác thải nhựa đại dương

Hội nghị G20.

Tại Hội nghị Bộ trưởng môi trường các nước G20 tại Italia vào tháng 7/2021, Báo cáo G20 về các hành động chống lại RTNĐD (G20 Report on Actions against Marine Plastic Litter) đã được trình lên Hội nghị với mục đích cập nhật các hành động của các quốc gia, khu vực và tổ chức đã thực hiện để giải quyết vấn đề RTNĐD.

Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 34 (tháng 6/2019), các nước ASEAN đã cùng nhau đưa ra Tuyên bố Bangkok về chống lại RTNĐD trong khu vực. Tuyên bố nhấn mạnh cần tăng cường hành động ở cấp quốc gia; khuyến khích phương pháp tiếp cận tổng hợp từ đất liền ra biển và củng cố các quy định pháp luật; thúc đẩy sự tham gia và đầu tư của khu vực tư nhân trong việc ngăn ngừa và giảm thiểu RTNĐD; nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên bằng cách ưu tiên các phương pháp tiếp cận như kinh tế tuần hoàn 3R (giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế); đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và hành động để nâng cao nhận thức và sự tham gia của cộng đồng,…

 

Bài học kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị chính sách đối với Việt Nam về quản lý rác thải nhựa đại dương

Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 34 các nước ASEAN.

Trong khoảng 2 năm gần đây, ngày càng nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế cùng nhau ban hành các tuyên bố khu vực kêu gọi cần có hành động toàn cầu mang tính pháp lý cao để giải quyết triệt để vấn đề RTNĐD.

Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong tham gia đóng góp tích cực và khởi xướng nhiều hoạt động quốc tế, đặc biệt đã và đang cùng với Đức, Ecuador và Ga Na thúc đẩy một Thỏa thuận toàn cầu và kêu gọi thành lập Ủy ban đàm phán liên chính phủ tại Hội nghị lần thứ 5 của UNEA (dự kiến tháng 2/2022).

Một số bài học kinh nghiệm quốc tế

Tổng hợp các chính sách của Hội đồng môi trường Liên hợp quốc, một số nước trên thế giới và ASEAN cho thấy một đặc điểm chung là đều hướng đến việc hoàn thành Mục tiêu số 14.1. Các chính sách, giải pháp thường tập trung vào 4 nhóm vấn đề chính: (1) Ngăn ngừa chất thải nhựa từ nguồn theo cách tiếp cận chuỗi giá trị cũng như địa lý (từ nguồn tới biển): Các biện pháp đề ra thường là giảm thiểu tại nguồn, tái sử dụng và tái chế chất thải, chuyển hóa năng lượng từ tái chế chất thải, phát triển các điểm, cơ sở tiếp nhận chất thải nhựa,… đề xuất các sáng kiến quản lý chất thải trên đất liền. (2) Giảm thiểu sự thất thoát nhựa ra môi trường: Các biện pháp chủ yếu là đưa ra các nguyên tắc, quy định có tính pháp lý về xử lý, thải bỏ nhựa trong quá trình sản xuất, kinh doanh, thương mại, sử dụng và thải bỏ nhựa; các quy định về cấm thải bỏ chất thải nhựa tại các khu vực nhạy cảm với hệ sinh thái,… (3) Loại bỏ RTN khỏi môi trường thể hiện dưới dạng các chương trình, sáng kiến, hoạt động làm sạch các vùng biển, bãi biển, đáy biển, thu hồi ngư cụ đánh bắt cá bị hỏng, giám sát các RTN trôi nổi trên biển. (4)Thay đổi thái độ, hành vi của con người, nhấn mạnh sự cần thiết và đưa ra các chương trình, biện pháp thúc đẩy giáo dục, tuyên truyền, truyền thông làm thay đổi cách ứng xử của con người trong việc sử dụng và thải bỏ nhựa.

Các công cụ kinh tế phổ biến đang được nhiều nước áp dụng (như: đánh thuế/thu lệ phí chôn lấp chất thải; áp thuế/lệ phí đối với sản phẩm nhựa sử dụng một lần; công cụ đặt cọc - hoàn trả; mở rộng trách nhiệm nhà sản xuất đối với sản phẩm nhựa) được nghiên cứu áp dụng tiến tới luật hóa phù hợp với chủ trương, đường lối, thể chế và điều kiện phát triển đất nước.

Theo tài liệu “Giải quyết vấn đề nhựa biển: Một lộ trình hướng đến kinh tế tuần hoàn” của UNEP và các đối tác (2019), cần 4 nguyên tắc quan trọng để xây dựng và thực hiện thành công Lộ trình chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn của nhựa cho Việt Nam, gồm có: (1) Hình thành điều kiện thuận lợi xuyên suốt bao gồm: Thể chế về thỏa thuận pháp lý và chính sách, nghiên cứu và kiến thức, sự tham gia và đối thoại của các bên liên quan, tài chính và phát triển năng lực; (2) Loại bỏ tất cả các sản phẩm nhựa có vấn đề và không cần thiết, kể cả các chất phụ gia độc hại; (3) Đổi mới thiết kế, mô hình sản xuất và kinh doanh để đảm bảo rằng loại nhựa chúng ta cần có thể tái sử dụng, tái chế hoặc có thể phân hủy và không chứa các chất phụ gia độc hại; (4)Tuần hoàn tất cả các sản phẩm nhựa ở mức giá trị cao nhất của chúng trong nền kinh tế để tránh bị thải loại ra môi trường.

Bài học kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị chính sách đối với Việt Nam về quản lý rác thải nhựa đại dương

Ảnh minh họa

Kiến nghị một số chính sách giải quyết vấn đề rác thải nhựa đại dương cho Việt Nam

Hướng đến hoàn thành mục tiêu 14.1 trong Chương trình Nghị sự PTBV đến năm 2030 của Liên hợp quốc về ngăn ngừa và giảm thiểu hiệu quả các loại hình ô nhiễm RTNĐD, Việt Nam đã nỗ lực thể hiện qua các cam kết chính trị cũng như các hoạt động thực tiễn quản lý, giảm thiểu RTN, đặc biệt là các chính sách đã ban hành như: Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược PTBV kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20/8/2020 về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 phê duyệt Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1746/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý RTNĐD đến năm 2030, số 1316/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 phê duyệt Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam, Quyết định số 1407/QĐ-TTg ngày 16/8/2021 phê duyệt Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương,…

Hiện nay, Việt Nam đã và đang áp dụng tổng hợp 4 công cụ chính trong quản lý nhựa và rác thải rắn (trong đó có RTN) để BVMT, đó là: (1) Nhóm công cụ mệnh lệnh và kiểm soát; (2) Nhóm công cụ kinh tế; (3) Nhóm công cụ kỹ thuật; (4) Nhóm công cụ tuyên truyền.

Như vậy, bước đầu Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống CSPL khá cơ bản, toàn diện trong việc quản lý chất thải nói chung và RTN nói riêng từ khâu sản xuất, tiêu dùng đến khâu xử lý. Ở khâu sản xuất, luật pháp Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách về đầu tư, thuế, sử dụng đất, cho vay vốn nhằm ưu đãi việc sử dụng các nguyên, vật liệu thân thiện môi trường cũng như hạn chế việc nhập khẩu phế liệu nhựa, ban hành thuế môi trường đối với túi ni-lông và bao bì nhựa. Ở khâu tiêu dùng, Bộ TN&MT đã xây dựng và triển khai danh hiệu “Nhãn xanh Việt Nam” đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường và được làm từ vật liệu tái chế, trong đó có túi ni-lông được làm từ nhựa có thể phân hủy được và các sản phẩm được làm từ nhựa tái chế. Ở khâu xử lý chất thải, Việt Nam đã có các quy định chi tiết về việc phân loại từ nguồn, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải, trong đó có chất thải nhựa. Quy trình xử lý chất thải nhìn chung được quy định đầy đủ, chặt chẽ và phân định rõ ràng trách nhiệm của nhà sản xuất, người tiêu dùng, các tổ chức thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải cũng như chính quyền các cấp.

Tuy nhiên, hệ thống CSPL Việt Nam về RTN và RTNĐD còn nhiều điểm phải hoàn thiện như: Chưa có các biện pháp mạnh về phòng ngừa, giảm thiểu RTN từ khâu nhập khẩu, sản xuất và thương mại; công nhận Nhãn xanh Việt Nam còn chưa được phổ biến rộng rãi; việc phân loại chất thải rắn, chất thải nhựa sau quá trình sử dụng còn ít, mới dừng ở các dự án thí điểm; việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, đặc biệt là RTN chưa được thực thi hiệu quả; phương pháp xử lý chất thải chủ yếu là chôn lấp; trách nhiệm QLNN về RTN thường chủ yếu tập trung cho Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh, trong khi thực tiễn các vi phạm quy định về quản lý chất thải lại từ cơ sở cấp xã, phường; các biện pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải còn chưa đủ sức răn đe,…

Nhận thức được tầm quan trọng của việc cần phải giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa và RTNĐD, Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm, đã và đang nỗ lực giải quyết thông qua việc đổi mới căn bản trong CSPL về BVMT. Tuy nhiên, tình hình đại dịch Covid -19 diễn biến phức tạp thời gian qua đã làm ảnh hưởng đến phát triển KT-XH và “làm chậm” nỗ lực giảm thiểu rác nhựa ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam; gây ra những khó khăn cho việc chuyển đổi về mô hình sản xuất, làm thay đổi rất lớn hành vi tiêu dùng của người dân. Điều này, tạo nên một áp lực không hề nhỏ đối với môi trường. Giải quyết vấn đề RTN - một bài toán cũ nay lại càng khó hơn bởi sự ảnh hưởng của dịch bệnh Covid -19. Trước tình hình đó, một số kiến nghị để tăng cường công tác QLNN về RTN và RTNĐD trong thời gian tới như sau:

Đối với các cơ quan liên quan của Quốc hội: Quan tâm thúc đẩy thực hiện tốt các mục tiêu, chủ trương, nhiệm vụ liên quan đến kinh tế tuần hoàn, RTNĐD đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược PTBV kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 hướng tới hoàn thành Mục tiêu số 14.1 của Chương trình Nghị sự PTBV Liên hợp quốc; tổ chức giám sát chuyên đề về nhựa và RTNĐD làm cơ sở để ban hành Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về PTBV ngành nhựa và quản lý RTNĐD; tổ chức giám sát thường xuyên tình hình xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BVMT năm 2020, đặc biệt lưu tâm đến kinh tế tuần hoàn, công tác BVMT theo vòng đời nhựa và quản lý RTNĐD; nghiên cứu, xây dựng Luật đóng gói để tối ưu hóa việc đóng gói, vận chuyển giảm thiểu sử dụng bao bì,….

Đối với Chính phủ và các bộ, ngành liên quan: Quan tâm, bố trí đủ nguồn lực để kịp thời triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác RTN và RTNĐD; xây dựng Lộ trình chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn của nhựa phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH của Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030. Sớm nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về: (i) Phát triển nguyên liệu thay thế nhựa thân thiện với môi trường; (ii) Các công cụ kinh tế phổ biến trên thế giới đối với nhựa và RTNĐD; (iii) Khuyến khích việc tái sử dụng, tái chế RTN an toàn phục vụ cho sản xuất; (iv) Xây dựng lộ trình cấm sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm nhựa dùng một lần, khó phân hủy và hàng hóa chứa các hạt vi nhựa không an toàn; (v) Mở rộng phạm vi dán nhãn “xanh” Việt Nam tới các sản phẩm thay thế nhựa thân thiện với môi trường; (vi) Cụ thể hóa các quy định, trách nhiệm và chế tài về phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế, tái sử dụng RTN; (vii) Hoàn thiện bộ máy QLNN về quản lý nhựa, RTN theo hướng nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương, cơ sở và các tổ chức Thanh tra môi trường, Cảnh sát môi trường để phát hiện, xử lý các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường; (viii) Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức người dân; có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện đầu tư nghiên cứu khoa học tìm ra các công nghệ có thể tái chế, tái sử dụng RTN.

TS. TẠ ĐÌNH THI

Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam

TS. LƯU ANH ĐỨC

Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam

ThS. NGUYỄN NGỌC SƠN

Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát tài nguyên và Bảo vệ môi trường biển, hải đảo

ThS. NGUYỄN CHÍ CÔNG

Văn phòng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam