
Công nghệ số mở lối cho nông nghiệp hiện đại và quản lý môi trường hiệu quả
29/05/2025TN&MTĐối với ngành Nông nghiệp và Môi trường - 02 trụ cột liên quan mật thiết đến an ninh lương thực, sinh thái và phát triển bền vững. Chuyển đổi số không chỉ là cơ hội, mà còn là yêu cầu cấp thiết để thích ứng với biến đổi khí hậu, tối ưu hóa nguồn lực và nâng cao hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, hành trình chuyển đổi số trong hai lĩnh vực này vẫn đang đối mặt với nhiều lực cản: Hạ tầng công nghệ còn manh mún, dữ liệu phân tán, nhân lực thiếu kỹ năng số và cơ chế phối hợp chưa đồng bộ.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy tham quan các gian hàng công nghệ tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57 - NQ/TW – nơi kết nối giữa nhà nước và doanh nghiệp trong hành trình thúc đẩy chuyển đổi số, đưa công nghệ trở thành lực đẩy cho quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển nông nghiệp hiện đại.
Chú trọng phát triển hạ tầng số, nền tảng số, cơ sở dữ liệu
Theo báo cáo của Cục Chuyển đổi số Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tại Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đến nay Bộ đã thực hiện hợp nhất hạ tầng số dùng chung đáp ứng nhu cầu cho các đơn vị thuộc Bộ NN&MT sau khi tiến hành sáp nhập 2 Bộ (Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT).
Hiện nay, Bộ đang quản lý, vận hành 05 Trung tâm dữ liệu: 02 tại Hà Nội (số 10 Tôn Thất Thuyết và số 28 Phạm Văn Đồng); 01 dự phòng tại TP. Hồ Chí Minh (36 Lý Văn Phức) và 01 Trung tâm dữ liệu vùng đồng bằng sông Cửu Long và 01 Trung tâm dữ liệu chuyên ngành tại Cục Khí tượng Thủy văn.
Nghị quyết số 57 -NQ/TW là bước khởi đầu cho sự gắn kết giữa dữ liệu, công nghệ và hành động, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, một môi trường bền vững trong kỷ nguyên số của Bộ Nông nghiệp và Môi trường
Việc xây dựng, hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành cũng đã được cơ bản hoàn tất và đưa vào khai thác. Bộ đã xây dựng xong 4 dữ liệu thành phần đối với cơ sở dữ liệu đất đai do Trung ương quản lý; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang xây dựng, hoàn thiện CSDL đất đai; 455/696 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL địa chính với hơn 50 triệu thửa đất; 63/63 tỉnh, thành phố đã thực hiện kết nối, chia sẻ CSDL đất đai với CSDL quốc gia về dân cư. Đang triển khai đáp ứng yêu cầu về hạ tầng, an toàn thông tin cấp độ 4, phần mềm để tích hợp, đồng bộ CSDL quốc gia về đất đai từ 455 đơn vị, kết nối với CSDL quốc gia về dân cư (hoàn thành trong tháng 6/2025), đồng bộ về Trung tâm dữ liệu quốc gia (hoàn thành tháng 8/2025).
Cũng theo Báo cáo của Cục Chuyển đổi số, đến nay tổng số CSDL dùng chung, chuyên ngành nông nghiệp và môi trường là 98 CSDL. Hiện tại, cơ bản các CSDL đã được xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng như: CSDL nền địa lý quốc gia (các tỷ lệ); CSDL khí tượng thủy văn (quan trắc, thời tiết, rủi ro thiên tai, ...); CSDL môi trường (hoàn thành giai đoạn 1); CSDL tài nguyên nước (quy hoạch, lưu vực sông, hồ chứa, quan trắc, ...); CSDL địa chất và khoáng sản (bản đồ địa chất, thống kê, kiểm kê, khoáng sản, ...); CSDL tài nguyên và môi trường biển và hải đảo (địa hình đáy biển, ranh giới, sinh thái biển, ...); CSDL viễn thám; CSDL biến đổi khí hậu; CSDL lĩnh vực trồng trọt (giống cây trồng, đất trồng lúa, ...); CSDL lĩnh vực chăn nuôi (thức ăn chăn nuôi, cơ sở chăn nuôi); CSDL lĩnh vực lâm nghiệp (tài nguyên rừng, cơ sở nuôi động vật hoang dã, ...); CSDL lĩnh vực thủy sản (nuôi trồng thủy sản, nghề cá quốc gia, chế biến và thị trường thủy sản, ...); CSDL lĩnh vực bảo vệ thực vật (bảo vệ và kinh doanh thực vật, sinh vật gây hại, thuốc bảo vệ thực vật, ...); CSDL lĩnh vực thú y (05 CSDL chuyên ngành phòng chống dịch bệnh động vật trên cạn và thủy sản,…); CSDL lĩnh vực đê điều và phòng chống thiên tai (đê điều; sạt lở bờ sông, bờ biển; thiệt hại, khắc phục hậu quả thiên tai, ...); CSDL lĩnh vực thủy lợi (ngành thủy lợi; công trình thủy lợi; đập, hồ chứa nước; nước sạch nông thôn, ...).
Triển khai vận hành nền tảng số, hệ thống thông tin đã được hợp nhất và đã đưa vào vận hành các hệ thống thông tin dùng chung (Quản lý văn bản và Hồ sơ điện tử; Thư điện tử; Hệ thống định danh, xác thực người dùng; Cổng Thông tin điện tử; Hệ thống họp trực tuyến...) phục vụ vận hành thông suốt, hiệu quả của Bộ sau khi hợp nhất trên môi trường số; Tiếp tục triển khai hợp nhất, mở rộng các hệ thống thông tin (Hệ thống giải quyết TTHC; Hải quan 1 cửa quốc gia; Hệ thống thông tin thống kê ngành; Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông lâm thủy sản; Hệ thống quản lý cán bộ, công chức, viên chức; Hệ thống quản lý khoa học và công nghệ; Hệ thống tiếp nhận và trả lời kiến nghị...).
Các hệ thống thông tin, nền tảng số, CSDL từng bước được xây dựng, cơ bản hoàn thiện phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Bộ, các đơn vị thuộc Bộ trên môi trường điện tử, trực tuyến; kết nối, liên thông với các hệ thống thông tin của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương góp phần phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Trong “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, nông nghiệp được xem là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên trong công cuộc chuyển đổi số. Dù hiện tại, quá trình này đã đạt những thành tựu nhất định, song vẫn còn tồn tại nhiều thách thức như mức độ cơ giới hóa thấp, ít công nghệ, các hoạt động canh tác, sản xuất vẫn còn được thực hiện dựa trên kinh nghiệm của nông dân.
Để triển khai thực hiện kinh tế số - nông dân số
Theo Báo cáo của Cục Chuyển đổi số, thời gian qua, việc số hóa, ứng dụng CNTT, công nghệ số để nâng cao giá trị kinh tế số trong lĩnh vực nông nghiệp được ghi nhận một số kết quả nhất định:
Trong sản xuất trồng trọt, một số doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ dân sản xuất đã áp dụng hệ thống tưới tự động, tưới nhỏ giọt, tự động điều chỉnh nhiệt độ trong nhà kính, nhà màng,… góp phần tiết kiệm chi phí nhân công, nguồn nước, tăng năng suất cây trồng.
Tại một số cơ sở chăn nuôi, trang trại chăn nuôi đã áp dụng hệ thống cảm biến điều khiển tiểu khí hậu chuồng nuôi, cho ăn và cấp nước uống tự động; quản lý, theo dõi chăn nuôi, xuất xứ động vật nuôi bằng phần mềm; bán hàng trên mạng thông qua các giao dịch điện tử. Điển hình là ngành chăn nuôi bò sữa với mô hình ứng dụng công nghệ trong các trang trại hiện đại của Tập đoàn TH TrueMilk và Công ty Vinamilk.
Ứng dụng công nghệ DND mã mạch trong quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản; tự động hóa, robot, IoT kết nối thiết bị, máy móc trong nhà máy chế biến gỗ có quy mô lớn; công nghệ GIS và ảnh viễn thám để xây dựng các phần mềm phát hiện sớm và cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần mềm giám sát và phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng.
Với sản xuất thủy sản, đã ứng dụng hệ thống giám sát hành trình, phần mềm Vnfishbase trong khai thác thủy sản để quản lý tàu cá và hỗ trợ ngư dân trong quá trình khai thác trên biển; ứng dụng công nghệ IoT trong đo lường, theo dõi, giám sát chất lượng nước tự động 24/24; đo độ mặn của sông, cho biết thời điểm xâm nhập mặn; ứng dụng công nghệ AI trong nuôi tôm nhằm phân tích các dữ liệu về chất lượng nước; quản lý thức ăn và sức khỏe của tôm nuôi, đồng thời giảm nhân công.
Còn lĩnh vực kinh tế hợp tác, đã xây dựng, vận hành hệ thống quản lý dữ liệu HTX nông nghiệp trên phầm mềm online quanlyhtxnongnghiep.gov.vn cập nhật báo cáo số liệu định kỳ về HTX nông nghiệp từ cấp huyện, tỉnh, trung ương hàng tháng, quý, năm; Phối hợp với các đơn vị đưa ra cổng egap.vn (cổng thông tin quản lý giám sát truy xuất nguồn gốc, thị trường nông sản Việt Nam) phân quyền cho các tỉnh quản lý theo 3 cấp; cấp 1 là Cục, cấp 2 là tỉnh, huyện và cấp 3 là HTX.
Về truy xuất nguồn gốc nông sản, đã triển khai truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp bằng tem gắn mã QR từ năm 2016. Đến nay, có rất nhiều sản phẩm nông sản được gắn tem truy xuất. Việc truy xuất nguồn gốc được thực hiện thông qua hợp đồng với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông qua các hệ thống truy xuất: traceverified.com, agricheck.net, icheck.com.vn, trace.icheck.vn, smartcheck.vn… Số lượng cơ sơ có sản phẩm truy xuất còn ít; chủ yếu là các doanh nghiệp và các hợp tác xã; chỉ thực hiện khi có nhu cầu như đưa hàng vào siêu thị, xuất khẩu, tham gia các chương trình hỗ trợ (như OCOP). Truy xuất nguồn gốc mới truy xuất đến các cơ sở chế biến là chủ yếu; truy xuất đến các hộ sản xuất có liên kết, vùng trồng chưa nhiều.
Về tiêu thụ nông sản, phối hợp với Bộ Công thương thực hiện Chiến lược phát triển thương mại trong nước đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số; phối hợp tổ chức kết nối thu mua nông sản, đẩy mạnh tiêu thụ nông sản trong các hệ thống, chuỗi siêu thị lớn, các sàn thương mại điện tử (Postmart, Shopee, Tiki, Lazada, Tiktok, Zalo…).
Về xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh, đôn đốc, cập nhật tiến độ các tỉnh phê duyệt mô hình xã nông thôn mới thông minh, xã thương mại điện tử với 08/15 tỉnh phê duyệt và đang tổ chức triển khai các hoạt động xây dựng mô hình; Hoàn thiện xây dựng Bộ tài liệu tập huấn chuyển đổi số trong xây dựng NTM, hướng tới NTM thông minh nhằm phuc vụ cho hoạt động tập huấn năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.
Công nghệ số có thể sử dụng để thu thập, phân tích, dự báo thông tin thời tiết và khí hậu. Dự báo chính xác về thời tiết và khí hậu có thể giúp nông dân xác định thời điểm tốt nhất để gieo trồng, thu hoạch và chăm sóc cây trồng. Ngoài ra, mô hình hóa khí hậu có thể cung cấp thông tin về xu hướng, biến đổi khí hậu để nông dân có thể điều chỉnh kế hoạch và phát triển các biện pháp ứng phó.
Còn nhiều rào cản trong hành trình số hóa
Cũng theo Báo cáo của ông Lê Phú Hà, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ NN&MT), hiện Cục vẫn còn nhiều khó khăn trong công tác chuyển đổi số của ngành. Xây dựng các văn bản về quy định kỹ thuật chưa thống nhất, đồng bộ đặc biệt là về CSDL còn chậm, dẫn đến triển khai khó khăn cả ở Bộ và các bộ, ngành, địa phương; Quy trình kỹ thuật chuyên môn lạc hậu; chậm đổi mới theo công nghệ số, chưa lấy dữ liệu làm trung tâm.
Các TTHC của Bộ phức tạp, công tác đơn giản hóa TTHC còn chậm, tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến chưa cao. Đơn vị triển khai DVCTT còn thiếu tích cực hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thực hiện trên môi trường trực tuyến; số hóa hồ sơ giải quyết TTHC còn chưa được quan tâm, tỷ lệ xử lý trực tuyến, thanh toán trực tuyến của một số lĩnh vực còn rất thấp. Công tác số hóa hồ sơ giải quyết TTHC còn chưa được quan tâm, hạn chế trong tái sử dụng hồ sơ giải quyết TTHC.
Bên cạnh đó, chưa coi CSDL là trung tâm; công tác quản lý, điều hành, hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu, dữ liệu chưa sử dụng thường xuyên trong công tác hàng ngày, chưa đảm bảo “đúng, đủ, sạch, sống”. Thông tin, dữ liệu là sản phẩm chủ chốt của quá trình điều tra cơ bản của ngành, nhưng quy trình kỹ thuật dựa trên công nghệ số còn chậm đổi mới, cung cấp, chia sẻ dữ liệu còn hạn chế.
Kinh phí duy trì vận hành, bảo đảm hoạt động các hệ thống thông tin ít, dẫn đến không đáp ứng yêu cầu về bảo trì kỹ thuật trang thiết bị, cập nhật bản quyền phần mềm (hiện nay các phần mềm thương mại đều phải mua bản quyền theo năm; các phần mềm nội bộ đều yêu cầu liên tục hoàn thiện, vá lỗi..).
Lãnh đạo, công chức, viên chức còn nhận thức chưa đầy đủ về công tác, nguy cơ về ATTT, bên cạnh các đơn vị nghiêm túc triển khai, còn nhiều đơn vị chưa quan tâm thực hiện. Kinh phí dành cho ATTT, duy trì vận hành các hệ thống bảo đảm ATTT còn hạn chế. Nhân lực chuyên trách, có năng lực về chuyển đổi số, ATTT mỏng, thiếu, hạn chế về chuyển môn, khó tuyển dụng.
Nông nghiệp chính xác, tương lai của nông nghiệp toàn cầu
Đưa nông nghiệp, môi trường “lên mây”: Chuyển đổi số không còn là lựa chọn
Được biết, các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy công tác chuyển đổi số của ngành nông nghiệp và môi trường trong thời gian tới đã được cụ thể hóa trong Kế hoạch của Bộ triển khai các Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 71/NQ-CP của Chính phủ. Để nhiệm vụ này triển khai có hiệu quả, Cục Chuyển đổi số đã đưa ra một số khuyến nghị:
Đối với bộ, ngành: Xây dựng ban hành cơ chế chính sách nhằm thu hút, khuyến khích, sử dụng nhân lực có chất lượng về công nghệ thông tin, khoa học dữ liệu, an toàn thông tin trong tổ chức, vị trí việc làm, chế độ đãi ngộ đặc thù đối với công chức, viên chức nhằm gắn bó, yên tâm công tác trong các cơ quan nhà nước.
Đối với địa phương: Để đảm bảo mục tiêu hoàn thành việc xây dựng CSDL đất đai trong tháng 6/2025, kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố: Hoàn thiện xây dựng, hoàn thiện, làm sạch CSDL về đất đai hiện có và tiếp tục để đo đạc, đăng ký... tiếp tục hoàn thành CSDL đất đai còn lại trên địa bàn (phấn đấu trong năm 2025); sử dụng trong công tác quản lý, chuyên môn hàng ngày và liên thông giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến đất đai; tích hợp đồng bộ vào CSDL quốc gia về đất đai.
Song song với đó là hoàn thiện, làm sạch CSDL về đất đai hiện có; sử dụng trong công tác quản lý, chuyên môn hàng ngày và liên thông giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến đất đai; tích hợp đồng bộ vào CSDL quốc gia về đất đai.
Xây dựng phương án tổng thể với các giải pháp, nguồn lực thực hiện khả thi để đo đạc, đăng ký... tiếp tục hoàn thành CSDL đất đai còn lại trên địa bàn (phấn đấu trong năm 2025).
Tiếp tục rà soát, tái cấu trúc quy trình, nghiệp vụ thủ tục hành chính cung cấp trên cổng dịch vụ công, đáp ứng yêu cầu thực chất, đơn giản, thuận lợi, dễ tiếp cận, dễ sử dụng để tiếp nhận, giải quyết các dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp.
Cục Chuyển đổi số sẽ tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai đồng bộ thông tin, dữ liệu trong CSDL đất đai ở địa phương với CSDL quốc gia về đất đai.
Đối với Hiệp hội, ngành hàng: Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến các thành viên, doanh nghiệp, người nông dân về chủ trương chuyển đổi số trong nông nghiệp, lợi ích và tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ số để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất.
Nghiên cứu, đề xuất các chính sách, giải pháp, xây dựng các mô hình điển hình về ứng dụng công nghệ số phù hợp với từng ngành hàng, lĩnh vực nông nghiệp cụ thể để triển khai nhân rộng.
Thúc đẩy kết nối, liên kết giữa các doanh nghiệp nông nghiệp với các doanh nghiệp công nghệ, startup về lĩnh vực số hóa, xây dựng các chuỗi giá trị nông sản thông minh, hiện đại.
Tăng cường kết nối, hợp tác với các tổ chức, hiệp hội quốc tế để tiếp thu kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh.
Phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác xây dựng CSDL về nông nghiệp số, chia sẻ thông tin, số liệu phục vụ nghiên cứu, phân tích và hoạch định chính sách.
Chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp và môi trường không còn là một lựa chọn, mà là con đường tất yếu để thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên và thúc đẩy phát triển bền vững. Tuy chặng đường phía trước còn nhiều thách thức, nhưng với sự đồng hành chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, cùng sự đầu tư bài bản vào hạ tầng, dữ liệu và nhân lực số, ngành nông nghiệp - môi trường hoàn toàn có thể bứt phá, trở thành hình mẫu của đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên số.
Đoàn Giang