Bài 2: Giải pháp giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và quản lý chất thải

28/09/2025

TN&MTTrong Kỳ 1 của loạt bài, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã phác họa bức tranh toàn cầu về khí mê-tan - loại khí có sức nóng gấp 28 lần CO₂ trong chu kỳ 100 năm và tới 80 lần trong 20 năm cũng như cam kết mạnh mẽ của Việt Nam khi tham gia Global Methane Pledge, đặt mục tiêu giảm ít nhất 30% phát thải vào năm 2030 so với 2020. Bước sang Kỳ 2, bài viết đi sâu vào hai lĩnh vực phát thải lớn nhất của Việt Nam: nông nghiệp và quản lý chất thải, nơi chiếm hơn 70% tổng lượng mê-tan quốc gia. Đây không chỉ là thách thức, mà còn là cơ hội vàng để Việt Nam hiện thực hóa cam kết toàn cầu, đồng thời đem lại lợi ích thiết thực cho kinh tế và xã hội.

Nguồn phát thải khí metan trong lĩnh vực hoạt động canh tác nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất (AFOLU) đã chiếm đến 57% tổng lượng phát thải của Việt Nam. Con số này cho thấy việc xử lý phế, phụ phẩm nông nghiệp đang là một thách thức lớn.

Từ những thửa ruộng lúa ngập nước, chuồng trại chăn nuôi đến các bãi rác và hệ thống nước thải đô thị, khí mê-tan đang âm thầm thoát ra, góp phần vào hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nhưng cũng chính từ đó, những giải pháp đơn giản, khả thi và mang lại lợi ích kép được các chuyên gia tại Hội thảo mê-tan 25/9/2025 nhấn mạnh: tưới ngập khô xen kẽ trong canh tác lúa, hầm biogas trong chăn nuôi, công nghệ điện - rác, hay xử lý nước thải hiện đại. Những giải pháp này nếu được triển khai đồng bộ sẽ giúp Việt Nam vừa thực hiện cam kết quốc tế, vừa cải thiện chất lượng môi trường và đời sống nhân dân.

Nông nghiệp - trọng tâm của cắt giảm

Trong tổng phát thải mê-tan của Việt Nam, nông nghiệp giữ vị trí số một. Theo kiểm kê khí nhà kính, khu vực này chiếm hơn 50% tổng lượng mê-tan quốc gia. Điều này có nghĩa là bất kỳ nỗ lực nào để đạt mục tiêu giảm 30% vào năm 2030 đều phải bắt đầu từ nông nghiệp.

Canh tác lúa nước là nguồn phát thải mê-tan lớn nhất. Thói quen giữ ruộng ngập liên tục suốt vụ mùa khiến lượng khí phát sinh cao. PGS.TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Nông nghiệp Môi trường, phân tích: “Ruộng lúa ngập nước liên tục tạo điều kiện yếm khí, dẫn tới phát thải mê-tan cao. Việc áp dụng kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ (AWD) có thể giúp giảm 30-40% phát thải mê-tan, đồng thời tiết kiệm nước tưới và nâng cao hiệu quả canh tác”.

PGS.TS Mai Văn Trịnh cũng nhấn mạnh, nếu áp dụng AWD ở quy mô lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long - nơi chiếm một nửa diện tích lúa cả nước, lượng phát thải cắt giảm được mỗi năm sẽ tương đương hàng triệu tấn CO₂tđ. Đây là giải pháp “một mũi tên trúng nhiều đích”: vừa giảm phát thải, vừa giảm chi phí bơm tưới, cải thiện chất lượng đất và thậm chí giúp tăng năng suất. Tuy nhiên, thách thức nằm ở tập quán canh tác đã ăn sâu nhiều đời và hạn chế về hạ tầng thủy lợi nội đồng.

Đứng thứ hai trong cơ cấu phát thải nông nghiệp là chăn nuôi, chiếm khoảng 33% tổng phát thải mê-tan của toàn ngành. Nguyên nhân chính là từ chất thải của đàn lợn, bò, gia cầm khi phân hủy yếm khí. TS. Lê Thị Thanh Huyền, Viện Chăn nuôi, nhấn mạnh tại hội thảo: “Giải pháp xây dựng và sử dụng hầm biogas không chỉ giảm phát thải mê-tan mà còn mang lại nguồn năng lượng sạch cho hộ chăn nuôi, giúp tiết kiệm chi phí”.

Theo TS. Lê Thị Thanh Huyền, cả nước hiện đã có hơn 500.000 hầm biogas hộ gia đình, nhưng đa phần quy mô nhỏ, hiệu suất thấp. Nếu phát triển hầm biogas tập trung tại trang trại lớn, kết hợp công nghệ phát điện, nguồn năng lượng này có thể thay thế một phần than, củi ở nông thôn và tạo lợi ích kép: giảm ô nhiễm, tăng thu nhập. Bên cạnh đó, TS. Lê Thị Thanh Huyền cũng đề cập đến giải pháp cải thiện khẩu phần ăn của gia súc: “Các loại thức ăn bổ sung hoặc điều chỉnh khẩu phần, ví dụ như phụ phẩm công nghiệp, tảo biển, hay các chất ức chế sinh mê-tan có thể giúp giảm đáng kể lượng khí phát thải từ quá trình lên men đường ruột ở gia súc nhai lại" - Đây là hướng đi mới, đòi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo an toàn và chi phí phù hợp. Thực chứng từ mô hình thí điểm. Không chỉ là lý thuyết, các mô hình thí điểm cho thấy hiệu quả kép về kinh tế và môi trường.

Mô hình rơm ủ urê cho bò thịt (HTX Lúa Vàng, tài trợ bởi GIZ): bò ăn rơm ủ urê có tốc độ tăng trọng cao hơn, giảm cường độ phát thải CH₄, đồng thời giúp hộ nuôi tăng lợi nhuận thêm 292.000 đồng/con trong 60 ngày so với sử dụng rơm khô.

Mô hình đệm lót sinh học: bò nuôi trên nền đệm lót khô, sạch sẽ có tốc độ tăng trọng 1.042 g/con/ngày, cao hơn so với đối chứng. Đồng thời, đệm lót còn giảm mùi hôi, hạn chế bệnh chân móng, và tạo thêm nguồn thu từ việc bán đệm lót đã qua sử dụng làm phân bón.

Ủ phân compost: kết hợp phân bò với rơm hoặc biochar cho ra phân hữu cơ giàu dinh dưỡng, đồng thời giảm trên 96% E. coli và Coliform - yếu tố quan trọng trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Các mô hình này minh chứng rằng giải pháp giảm phát thải không những khả thi mà còn mang lại lợi ích tài chính rõ rệt cho nông dân.

Không chỉ rác thải, nước thải sinh hoạt và công nghiệp cũng là nguồn phát thải đáng kể. Theo báo cáo, với nguồn lực trong nước, đến năm 2030 lĩnh vực chất thải có thể giảm được 7,28 triệu tấn CO₂tđ mê-tan; nếu có hỗ trợ quốc tế, mức giảm lên tới 26,94 triệu tấn CO₂tđ. Các biện pháp chính, xây dựng nhà máy xử lý tập trung, áp dụng công nghệ kỵ khí có thu hồi khí, tăng cường tái sử dụng nước thải cho sản xuất, và kiểm soát chặt chẽ nước thải công nghiệp.

Việc giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và chất thải mang lại nhiều lợi ích vượt ra ngoài mục tiêu khí hậu: (1) Kinh tế tuần hoàn: rơm rạ, phân chuồng, rác hữu cơ trở thành phân bón, năng lượng. (2) Cải thiện sức khỏe cộng đồng: giảm mùi hôi, ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh. (3) Năng lượng sạch: biogas và điện - rác thay thế một phần nhiên liệu hóa thạch. (4) Tài chính khí hậu: cơ hội tiếp cận các quỹ quốc tế, cơ chế tín chỉ carbon.

Thách thức trên hành trình thực hiện

Dù tiềm năng giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và quản lý chất thải rất lớn, hành trình hiện thực hóa lại không hề bằng phẳng. Những rào cản về tài chính, công nghệ, tập quán sản xuất và thể chế quản lý vẫn là trở ngại lớn, đòi hỏi sự kiên trì và những chính sách khéo léo để tháo gỡ.

TS. Lương Quang Huy - Cục Biến đổi khí hậu đã chỉ rõ: “Khó khăn lớn nhất nằm ở nguồn lực tài chính và công nghệ. Nhiều giải pháp hiện đại có chi phí cao, trong khi khả năng đầu tư của nông dân, doanh nghiệp còn hạn chế”.

Các công nghệ tiên tiến như hệ thống biogas quy mô lớn, phụ gia ức chế sinh mê-tan trong chăn nuôi hay các nhà máy xử lý rác phát điện đều cần vốn đầu tư ban đầu rất lớn. Trong khi đó, phần lớn nông hộ Việt Nam có quy mô nhỏ, thu nhập còn bấp bênh, khó tiếp cận tín dụng xanh. Điều này khiến họ ngần ngại áp dụng giải pháp mới dù biết rõ lợi ích dài hạn.

Mỗi con bò có thể thải ra từ 100 đến 200 lít khí mê-tan mỗi ngày

Một thách thức không nhỏ là thói quen canh tác và chăn nuôi lâu đời. Ở đồng bằng sông Cửu Long, hình ảnh ruộng lúa ngập nước suốt vụ mùa đã tồn tại hàng trăm năm. Để thuyết phục nông dân áp dụng tưới ngập khô xen kẽ (AWD), dù giúp giảm tới 30-40% phát thải mê-tan  không thể chỉ bằng mệnh lệnh hành chính. Nó đòi hỏi quá trình truyền thông, tập huấn, xây dựng mô hình mẫu và hỗ trợ kỹ thuật kiên trì, để nông dân thấy rõ lợi ích ngay trong mùa vụ của mình.

Tương tự, trong chăn nuôi, việc điều chỉnh khẩu phần thức ăn cho gia súc bằng phụ gia như 3-NOP hay tannin vẫn còn xa lạ. TS. Lê Thị Thanh Huyền chỉ ra: “Cải thiện khẩu phần ăn và bổ sung phụ gia ức chế sinh mê-tan là giải pháp hứa hẹn, nhưng cần thời gian để nghiên cứu, chuẩn hóa và hướng dẫn nông dân áp dụng rộng rãi”.

Một vấn đề khác là cơ sở hạ tầng. Ở nông thôn, hệ thống kênh mương nội đồng chưa đủ linh hoạt để áp dụng AWD đồng bộ. Ở đô thị, phân loại rác tại nguồn còn rất hạn chế, khiến khối lượng chất thải hữu cơ dồn về bãi chôn lấp, khó triển khai compost hay thu hồi khí hiệu quả.

Trong quản lý, hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) vẫn trong giai đoạn hoàn thiện. Dù Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Thông tư 19/2024/TT-BNNPTNT đã đặt nền móng, việc triển khai tới tận cấp hộ nông dân và trang trại vẫn cần thời gian. Khi chưa có dữ liệu minh bạch, việc tiếp cận nguồn vốn khí hậu quốc tế hoặc bán tín chỉ carbon sẽ gặp khó khăn. Dù Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến 2050, nhưng nhiều chính sách khuyến khích cụ thể cho người dân và doanh nghiệp vẫn còn thiếu. Ví dụ, chưa có cơ chế giá điện rõ ràng cho điện từ biogas, hay ưu đãi thuế cho phân hữu cơ sản xuất từ compost. Thiếu khung chính sách đủ hấp dẫn, nông dân và doanh nghiệp khó có động lực đầu tư.

Ngoài ra, tâm lý “ăn chắc mặc bền” cũng khiến nông dân dè dặt. Họ lo sợ rủi ro khi thử nghiệm phương thức mới, nhất là khi chưa thấy rõ thị trường tiêu thụ sản phẩm phụ (điện, phân hữu cơ, tín chỉ carbon). Vì vậy, những mô hình thành công cần được truyền thông rộng rãi để tạo niềm tin và khuyến khích nhân rộng.

Hành trình giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và quản lý chất thải giống như một “con đường nhiều ổ gà”: có giải pháp, có tiềm năng, nhưng cũng đầy rào cản. Để vượt qua, Việt Nam cần sự kết hợp giữa chính sách khuyến khích, tài chính hỗ trợ, hạ tầng đồng bộ và đặc biệt là sự tham gia chủ động của người dân - những người trực tiếp tạo ra và cũng trực tiếp hưởng lợi từ việc giảm phát thải.

Định hướng đến 2030 và tầm nhìn 2050

Việt Nam đã đưa mục tiêu giảm phát thải mê-tan vào Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 và các kế hoạch hành động quốc gia. Theo đó, đến năm 2030, lượng phát thải mê-tan phải giảm ít nhất 30% so với mức năm 2020; đến năm 2050, mức giảm phải đạt 40% so với năm 2030. Đây là những con số cụ thể, phản ánh cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong thực hiện Global Methane Pledge.

Trong giai đoạn 5 năm tới, Việt Nam tập trung vào những giải pháp chi phí thấp, hiệu quả nhanh và có tính nhân rộng: (1) Trong lúa gạo: nhân rộng kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ (AWD) trên các vùng trọng điểm, kết hợp canh tác lúa - tôm, khuyến khích nông dân bỏ dần tập quán giữ ruộng ngập liên tục. Đây được xem là giải pháp cốt lõi để giảm hàng triệu tấn CO₂tđ mỗi năm. (2) Trong chăn nuôi: phổ biến hầm biogas quy mô hộ và trang trại, áp dụng đệm lót sinh học, cải thiện khẩu phần thức ăn cho trâu bò bằng phụ gia giảm phát thải như 3-NOP, tannin, zeolite. (3) Trong quản lý chất thải: thúc đẩy phân loại rác tại nguồn, mở rộng xử lý compost cho rác hữu cơ, xây dựng thêm nhà máy điện - rác tại các đô thị lớn, đồng thời cải thiện hệ thống xử lý nước thải bằng công nghệ kỵ khí có thu hồi khí. (4) MRV và chính sách: hoàn thiện hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Thông tư 19/2024/TT-BNNPTNT, tạo cơ sở để các dự án giảm mê-tan được ghi nhận và có thể tham gia thị trường carbon.

Mục tiêu là đến năm 2030, Việt Nam vừa giảm được ít nhất 30% phát thải mê-tan, vừa xây dựng được hệ sinh thái công nghệ, tài chính đủ mạnh để duy trì đà giảm trong dài hạn. Sau 2030, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “chuyển đổi sâu”, khi những biện pháp ngắn hạn không còn đủ, đòi hỏi đầu tư công nghệ hiện đại và thay đổi cấu trúc ngành: (1) Trong nông nghiệp: tiến tới nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp carbon thấp, với mô hình canh tác lúa ít nước, tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, và chuỗi giá trị phân bón hữu cơ. (2) Trong chăn nuôi: áp dụng rộng rãi phụ gia ức chế mê-tan và công nghệ xử lý chất thải khép kín, phát triển cụm biogas tập trung phát điện và cung cấp khí sạch cho cộng đồng. (3) Trong quản lý chất thải: loại bỏ dần chôn lấp lộ thiên, thay thế bằng công nghệ điện - rác, compost công nghiệp và tái chế tuần hoàn. Toàn bộ khí bãi rác phải được thu hồi, không để phát tán tự do. (4) Trong chính sách và thị trường: hình thành thị trường carbon nội địa vận hành đầy đủ, kết nối với thị trường quốc tế, biến mỗi tấn mê-tan giảm được thành nguồn thu tài chính cho doanh nghiệp và địa phương.

Tới năm 2050, mục tiêu đặt ra là nông nghiệp và chất thải không còn phát thải ròng mê-tan, gắn liền với chiến lược phát thải ròng bằng 0 của quốc gia. TS. Lương Quang Huy nhấn mạnh: “Giảm phát thải mê-tan không chỉ là một nghĩa vụ quốc tế, mà còn là nhu cầu tự thân để Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao sức khỏe cộng đồng và khẳng định vị thế quốc gia trên trường quốc tế.”

Như vậy, định hướng đến 2030 là tận dụng các giải pháp nhanh và rẻ để đạt chỉ tiêu cam kết, còn tầm nhìn 2050 là tái cấu trúc toàn diện sản xuất và quản lý chất thải, tiến tới nền kinh tế carbon thấp. Đây sẽ là nền tảng để Việt Nam giữ vững cam kết toàn cầu, đồng thời xây dựng mô hình phát triển xanh, bền vững và thịnh vượng.

Rõ ràng, từ ruộng lúa, chuồng trại đến bãi rác và hệ thống nước thải đô thị, tiềm năng giảm phát thải mê-tan của Việt Nam là vô cùng lớn. Nếu được triển khai đồng bộ, các giải pháp này không chỉ giúp đạt mục tiêu giảm ít nhất 30% vào năm 2030, mà còn mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, quản lý chất thải tuần hoàn và nâng cao chất lượng sống cho hàng chục triệu người dân.

Tuy nhiên, nông nghiệp và chất thải mới chỉ là một nửa bức tranh. Lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là khai thác than và dầu khí mới chính là “mặt trận then chốt” quyết định khả năng hoàn thành cam kết toàn cầu. Đây là lĩnh vực có tiềm năng cắt giảm mạnh mẽ nhưng cũng đầy thách thức vì chi phí công nghệ cao, yêu cầu đổi mới quản trị và đầu tư hạ tầng lớn.

Mời bạn đọc đón đọc tiếp Kỳ 3: Năng lượng - Mặt trận then chốt giảm phát thải mê-tan, để cùng tìm hiểu sâu hơn về các giải pháp kỹ thuật, lộ trình chính sách và cơ hội hợp tác quốc tế trong quá trình chuyển dịch xanh của ngành năng lượng Việt Nam.

Hồng Minh

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Việt Nam và Liên Hợp Quốc tăng cường hợp tác nâng cao năng lực phòng chống thiên tai

Tích cực chuẩn bị tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước ngành Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I

Việt Nam - Ai Cập củng cố cơ chế hợp tác thương mại nông sản: Cơ hội mới cho gạo Việt Nam

Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng tiếp Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới

Nông nghiệp

Hoàn thiện Hồ sơ Đề án đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Hà Nội hoàn thành xây dựng nông thôn mới, đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất

Xã đảo ở Thanh Hóa khởi sắc nhờ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững

Lão nông xứ Nghệ gần 3 thập kỷ gắn bó với nghề nuôi hươu

Tài nguyên

Gỡ "nút thắt" trong chuyển mục đích sử dụng đất - Cần bảo đảm công bằng, ổn định xã hội

Chính phủ tháo gỡ vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian chờ điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia

Nghệ An: Nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chi trả ERPA

Kỳ 2: Góc nhìn đa chiều về Luật Địa chất và Khoáng sản 2024: Doanh nghiệp, truyền thông và những vấn đề của thực tiễn

Môi trường

Bài 2: Giải pháp giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và quản lý chất thải

Bài 1: Cam kết toàn cầu và lộ trình giảm phát thải mê-tan của Việt Nam

Công tác bảo vệ môi trường đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng

Trung tâm SOS đảm nhiệm trực ứng phó sự cố môi trường cho chiến hạm HMS Richmond tại TP. Hồ Chí Minh

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Kỳ 2: Từ phòng thí nghiệm tới doanh nghiệp - những công nghệ mới giúp nông sản Việt vươn xa

Học sinh Chu Văn An sáng chế máy gieo hạt tự động, kiến tạo nông nghiệp tương lai

Khai mạc Hội nghị Khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thuỷ sản và cơ giới hoá nông nghiệp toàn quốc năm 2025

ThS. Lưu Hải Âu: Vượt khó, đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển hệ sinh thái không người lái bầy đàn (Kỳ 2)

Chính sách

Phê duyệt Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển

Kéo dài thời gian Triển lãm thành tựu Đất nước đến hết ngày 15/9/2025

Nghiên cứu, đề xuất giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất phù hợp trong thu tiền sử dụng đất

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung ứng phó bão số 6

Phát triển

Bước ngoặt 2 cấp trong tái cấu trúc chính quyền - Bài 3: Hành chính công - Giảm tầng nấc, tăng phục vụ

Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh trao bằng cho hơn 900 tân Thạc sĩ, Kỹ sư, Cử nhân tại cơ sở mới Hiệp Phước

Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2025 - 2030: Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, sáng tạo và phát triển

Du lịch cộng đồng với hương sắc chè Shan tuyết, câu chuyện từ ngôi nhà Giàng A Dê ở Suối Giàng

Diễn đàn

Nghệ An tăng cường bảo đảm an toàn công trình thủy lợi do ảnh hưởng của mưa bão Bualoi

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Tuyệt đối không chủ quan trong ứng phó bão số 10

Quảng Trị sơ tán 1.402 người dân tránh bão số 10

Thanh Hóa sẵn sàng mọi phương án ứng phó bão số 10