Đánh giá điều kiện khí tượng nông nghiệp và các yếu tố thời tiết bất lợi đối với sản xuất nông nghiệp năm 2024

10/06/2025

TN&MTBài báo đánh giá điều kiện khí tượng nông nghiệp năm 2024 dựa trên việc tổng hợp thông tin từ các bản tin khí tượng nông nghiệp hàng tháng của Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng Nông nghiệp. Kết quả phân tích cho thấy năm 2024 có xu hướng nhiệt độ cao hơn trung bình nhiều năm và phân bố mưa bất thường: mùa khô kéo dài, lượng mưa thiếu hụt ở nhiều nơi đầu vụ, sau đó mưa gia tăng vào cuối vụ. Nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng gay gắt, mưa đá, dông lốc, bão mạnh) đã xuất hiện với tần suất cao, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cây trồng, vật nuôi và làm bùng phát sâu bệnh. Những thông tin và nhận định này cung cấp cơ sở khoa học giúp nhà quản lý và nông dân chủ động đề ra các giải pháp ứng phó hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.

1. Giới thiệu chung

Từ đầu năm 2024 đến nay, thời tiết có nhiều biểu hiện bất thường của biến đổi khí hậu. Trong vòng một năm qua, hàng loạt hiện tượng cực đoan liên tiếp xảy ra: Mưa lớn kèm dông lốc, mưa đá xuất hiện ở các tỉnh miền Bắc vào những thời điểm hiếm khi hoặc chưa từng ghi nhận; đặc biệt miền Bắc trải qua đợt nắng nóng kéo dài kỷ lục trong 31 năm. Ở miền Trung và Nam Bộ, hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt cũng diễn ra trên diện rộng. Những hiện tượng thời tiết cực đoan này đã và đang gây thiệt hại không nhỏ đến mọi mặt đời sống, đặc biệt là ngành nông nghiệp.

Thời tiết và khí hậu tác động mạnh mẽ đến sinh trưởng, phát triển cũng như năng suất, sản lượng cây trồng. Do đó, việc theo dõi và đánh giá định kỳ điều kiện khí tượng nông nghiệp (giám sát nhiệt độ, mưa, ẩm, v.v. đối với cây trồng) có ý nghĩa quan trọng trong dự báo năng suất và sản lượng cây trồng chính. Bên cạnh các biện pháp kỹ thuật trong nông nghiệp (giống mới, kỹ thuật canh tác, sử dụng phân bón hợp lý...), công tác giám sát điều kiện khí tượng nông nghiệp là rất cần thiết để giảm thiểu tác động bất lợi của thời tiết đến sản xuất.

Trong bối cảnh thời tiết ngày càng cực đoan, việc đánh giá điều kiện khí tượng nông nghiệp và các yếu tố thời tiết bất lợi năm 2024 là nhiệm vụ cấp thiết. Kết quả đánh giá sẽ giúp người dân và các nhà quản lý chủ động đề ra biện pháp thích ứng kịp thời nhằm giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Bài báo này tập trung phân tích điều kiện khí tượng nông nghiệp trong hai vụ sản xuất chính (vụ Đông Xuân 2023-2024 và vụ Mùa 2024) và đánh giá những tác động của thời tiết bất lợi đến sản xuất nông nghiệp trong năm 2024.

2. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Số liệu

Số liệu quan trắc các yếu tố khí tượng trung bình tháng, từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2024.

 Số liệu quan trắc các yếu tố khí tượng được thu thập tại 150 trạm quan trắc trên cả nước được thu thập từ nguồn số liệu CLIM. 

 Số liệu sâu dịch hại và mùa vụ được thu thập từ Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng số liệu khí tượng nông nghiệp trong năm 2024 do Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng Nông nghiệp (Viện Khoa học KTTV&BĐKH) tổng hợp từ các trạm khí tượng trên cả nước (các bản tin khí tượng nông nghiệp số 1-12 năm 2024). Dữ liệu bao gồm các yếu tố: nhiệt độ không khí trung bình tháng, lượng mưa, số giờ nắng, độ ẩm… của các vùng nông nghiệp chính, được so sánh với giá trị trung bình nhiều năm (TBNN) nhằm xác định mức độ dị thường của thời tiết. Bên cạnh đó, các hiện tượng thời tiết cực đoan (như nắng nóng, mưa lớn, dông lốc, bão, lũ quét, hạn hán, xâm nhập mặn, v.v.) xảy ra trong năm 2024 được thống kê dựa trên các báo cáo khí tượng và thiên tai. Ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp được đánh giá thông qua các chỉ số và số liệu báo cáo: diện tích cây trồng bị hạn hán, ngập úng; mức độ khô hạn theo chỉ số căng thẳng nước cây trồng (ASI); tình hình sâu bệnh hại và thiệt hại trong chăn nuôi do các hiện tượng thời tiết gây ra.

3. Kết quả và thảo luận

3.1. Điều kiện khí tượng nông nghiệp vụ Đông Xuân 2023-2024

a) Điều kiện khí tượng nông nghiệp

Nhiệt độ và lượng mưa: Nhiệt độ trung bình các tháng vụ Đông Xuân 2023-2024 luôn cao hơn hoặc xấp xỉ TBNN, phổ biến cao hơn từ 0,5 - 4°C. Nhiều nơi ghi nhận nhiệt độ trung bình cao hơn TBNN trên 3°C, đặc biệt một số trạm ở miền Bắc vào tháng 12/2023 và 1/2024 (ví dụ: Điện Biên, Lai Châu cao hơn ~3-4°C; Quy Hợp - Hà Tĩnh cao hơn 4,3°C; Sông Mã - Sơn La cao hơn 3,9°C so với TBNN). Lượng mưa vụ Đông Xuân phân bố không đều và có xu hướng thiếu hụt trong phần lớn thời gian vụ. Tổng lượng mưa từ tháng 12/2023 đến tháng 3/2024 ở nhiều nơi thấp hơn so với TBNN (thiếu hụt khoảng 10-60mm mỗi tháng). Điều này dẫn đến tình trạng thiếu ẩm trên diện rộng, đặc biệt tại khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ thiếu ẩm nghiêm trọng. Tuy nhiên, một số khu vực đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ trong tháng 1 và tháng 3 lại có mưa cao hơn TBNN từ 10 - 115mm, phần nào cải thiện độ ẩm đất. Đến giai đoạn cuối vụ (tháng 4-5/2024), lượng mưa có xu hướng tăng lên: mặc dù tháng 4/2024 vẫn thiếu hụt so với TBNN (thiếu khoảng 30-60mm, riêng Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long thiếu trên 100mm), sang tháng 5/2024 nhiều nơi mưa đã vượt TBNN từ 30 - 260mm (riêng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn thấp hơn TBNN 10 - 90mm).

Số giờ nắng trong vụ Đông Xuân 2023-2024 nhìn chung cao hơn trung bình nhiều năm. Tổng số giờ nắng mỗi tháng cao hơn TBNN từ vài giờ đến hàng chục giờ (thậm chí một số nơi cao hơn tới 100 giờ trong tháng 1/2024). Độ ẩm không khí trung bình trong vụ thấp hơn một chút so với TBNN, phản ánh điều kiện khô hanh hơn bình thường.

Thời tiết cực đoan: Trong vụ Đông Xuân đã xuất hiện một số hiện tượng thời tiết cực đoan gây ảnh hưởng xấu. Đáng chú ý, mưa đá kèm dông lốc đã xảy ra rải rác ở vùng núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vào tháng 4 và đầu tháng 5/2024. Ví dụ, ngày 2/4 ghi nhận mưa đá tại nhiều địa phương thuộc Cao Bằng, Lào Cai; giữa tháng 4 (14-17/4) mưa đá xuất hiện ở Nghệ An, Thanh Hóa; hiện tượng này còn lặp lại vào đêm 2/5 ở Nghệ An. Các đợt không khí lạnh muộn cũng tràn về cuối tháng 2/2024 gây rét đậm tại Bắc Bộ. Nhìn chung, vụ Đông Xuân ấm hơn trung bình nhưng lại xen kẽ những đợt thời tiết cực đoan bất thường (rét muộn, dông lốc, mưa đá) ảnh hưởng đến sản xuất.

b) Ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân 2023-2024

Tác động đến cây trồng: Do vụ Đông Xuân ít mưa, lượng nước cung cấp cho cây trồng bị thiếu hụt nghiêm trọng. Tính chung trên cả nước, khoảng 10% diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân bị khô hạn thiếu ẩm so với nhu cầu. Đặc biệt, một số địa phương ở đồng bằng sông Hồng chịu hạn nặng: tại Bắc Ninh, Vĩnh Phúc có tới 25-55% diện tích cây trồng bị ảnh hưởng thiếu nước; ở Đồng bằng sông Cửu Long (như Tiền Giang, Đồng Tháp) con số này khoảng 40-70% diện tích. Vùng Tây Nguyên chịu hạn hán nghiêm trọng nhất: đến cuối tháng 4/2024, riêng tỉnh Đắk Nông có khoảng 11.470 ha cây trồng thiếu nước, Đắk Lắk 4.958 ha, Lâm Đồng trên 2.000 ha; Gia Lai 380 ha và Kon Tum 112 ha bị ảnh hưởng nặng bởi hạn hán và nắng nóng. Hậu quả là năng suất cây công nghiệp dài ngày giảm sút, điển hình như năng suất cà phê tại Đắk Nông và Đắk Lắk ước tính giảm khoảng 20-30%. Cây sầu riêng tại Tây Nguyên cũng bị rụng hoa và quả non hàng loạt do khô hạn kéo dài. Tại Nam Trung Bộ, hạn hán gay gắt xảy ra ở Ninh Thuận và Bình Thuận: khoảng 960 ha cây trồng tại Bình Thuận và 6.800 ha tại Ninh Thuận bị thiếu nước tưới, cây khô héo, nguy cơ mất trắng mùa vụ. Hiện tượng sầu riêng rụng hoa quả non cũng được ghi nhận phổ biến ở các tỉnh này.

Thiệt hại do mưa dông, lốc xoáy: Các đợt mưa lớn kèm dông lốc cuối tháng 4 đầu tháng 5/2024 đã gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất. Từ 30/4 đến 4/5, mưa dông làm ảnh hưởng khoảng 7.000 ha lúa, hoa màu và rừng trồng tại khu vực Bắc Bộ. Tiếp đó, đợt thiên tai ngày 4-5/5 khiến 221 ha lúa, hoa màu và 19,7 ha cây trồng khác ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Tuyên Quang bị ngập, gãy đổ. Tại các tỉnh Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước), mưa giông kèm lốc và sạt lở đất trong các ngày 15-16/5 đã làm thiệt hại khoảng 40 ha lúa, hoa màu (riêng Đồng Nai) và hàng chục ha cây công nghiệp lâu năm (cao su, điều, sầu riêng) ở Bình Phước bị gãy đổ, rụng quả.

Tác động đến sâu bệnh: Nền nhiệt độ cao kết hợp độ ẩm không khí về đêm cao trong vụ Đông Xuân đã tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh. Đặc biệt ở Nam Bộ, bệnh đạo ôn trên lúa bùng phát mạnh trong điều kiện ấm ẩm bất thường đầu năm.

Tác động đến chăn nuôi: Thời tiết nóng ẩm kéo dài làm giảm sức đề kháng của vật nuôi. Ở khu vực Nam Bộ, nhiệt độ cao kèm độ ẩm lớn ảnh hưởng đến hô hấp và giảm lượng thức ăn thu nhận của gia súc, gia cầm, khiến tốc độ tăng trưởng giảm. Ngược lại, tại các tỉnh phía Bắc, đợt rét đậm kéo dài cuối tháng 2/2024 đã làm một số gia súc, gia cầm bị chết và suy giảm sức khỏe do lạnh.

3.2. Điều kiện khí tượng nông nghiệp vụ Mùa 2024

a. Diễn biến của điều kiện khí tượng

Nhiệt độ và lượng mưa: Vụ Mùa 2024 (tháng 6 đến tháng 11/2024) tiếp tục ghi nhận nền nhiệt cao bất thường. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa mưa đều cao hơn so với TBNN. Cụ thể, các tháng cao điểm mùa hè (7 và 8/2024) nhiệt độ trung bình cao hơn TBNN khoảng 0,5 – 3,5°C; các tháng 9 và 10/2024 cao hơn khoảng 0,4 – 3,0°C. Tháng cuối vụ (11/2024), nhiệt độ tuy giảm so với các tháng trước nhưng vẫn cao hơn TBNN từ 0,1 – 3,8°C. So sánh với cùng kỳ năm trước, nhiệt độ tháng 11/2024 tại đa phần các nơi thấp hơn tháng 11/2023 (giảm 0,1 – 1,5°C), chỉ một vài nơi ở miền Bắc và Nam Bộ cao hơn cùng kỳ năm 2023 khoảng 0,5 – 1°C.

Lượng mưa trong vụ Mùa 2024 có sự biến động lớn theo không gian và thời gian. Tháng 7-8/2024, tổng lượng mưa phần lớn cao hơn TBNN ở Bắc Bộ (đặc biệt vùng đồng bằng sông Hồng) và Tây Nguyên, cũng như tại đồng bằng sông Cửu Long; ngược lại một số nơi ở Trung Bộ và Nam Bộ lại có lượng mưa thấp hơn trung bình trong giai đoạn này, gây tình trạng khô hạn cục bộ đầu vụ. Sang tháng 9/2024, mưa tăng mạnh trên diện rộng: nhiều nơi đạt tổng lượng mưa rất cao (trung bình 100 - 300mm/tháng, cá biệt có nơi trên 600mm trong một đợt mưa lớn), vượt mức TBNN cùng kỳ. Tuy nhiên, bước sang tháng 10/2024, mưa giảm rõ rệt, hầu hết các khu vực trên cả nước có lượng mưa tháng 10 thấp hơn TBNN (thiếu hụt khoảng 40 - 300mm so với trung bình), chỉ một số tỉnh ven biển miền Trung và một phần Tây Nguyên, Nam Bộ được bổ sung mưa do ảnh hưởng áp thấp nhiệt đới nên tổng mưa vẫn cao hơn TBNN (thừa khoảng 100 - 900mm). Đến tháng 11/2024, xu thế phân hóa vẫn tiếp tục: đa phần các nơi mưa dưới mức trung bình (thiếu 30 - 274mm so với TBNN), nhưng riêng một số khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ lại có mưa vượt TBNN khá lớn (thừa 180 - 980mm) do ảnh hưởng các đợt mưa lũ muộn. So với cùng kỳ năm trước, lượng mưa tích lũy tháng 11/2024 cao hơn năm 2023 từ 100 - 350mm tại nhiều nơi (đặc biệt ở Trung Bộ).

Tổng số giờ nắng trong vụ Mùa 2024 nhìn chung cao hơn so với trung bình nhiều năm. Tháng 7 và 8/2024, nhiều địa phương có số giờ nắng vượt TBNN từ 10 đến hơn 100 giờ (đáng kể nhất ở Bắc Trung Bộ và Nam Bộ). Các tháng 9, 10 và 11/2024 cũng ghi nhận thừa nắng so với TBNN (phổ biến cao hơn từ 5 – 70 giờ mỗi tháng). Tuy nhiên, một vài khu vực cục bộ – như vùng Đông Bắc Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ – có thể có số giờ nắng thấp hơn trung bình do ảnh hưởng của mưa nhiều giai đoạn cuối vụ. Nhìn chung, điều kiện ánh sáng trong vụ Mùa thuận lợi cho cây trồng ở hầu hết các vùng.

Thời tiết cực đoan: Vụ Mùa 2024 diễn ra trong mùa mưa bão nên xuất hiện nhiều hiện tượng thời tiết nguy hiểm tác động đến nông nghiệp. Các tháng đầu vụ (tháng 6-7/2024), ngoài các đợt mưa giông thường xuyên, khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ thỉnh thoảng xuất hiện hiện tượng khô nóng nhẹ do ảnh hưởng hiệu ứng phơn. Tại Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ, nắng nóng xảy ra gay gắt: trong tháng 7/2024 đã có 2 đợt nắng nóng diện rộng, đặc biệt từ ngày 8-13/7 và 26-27/7 nhiệt độ lên rất cao. Ở các tỉnh như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Phú Yên, tổng số ngày nắng nóng trong tháng lên tới 21-23 ngày. Bước sang cuối vụ, nắng nóng giảm dần; chỉ còn xuất hiện lác đác ở một số nơi thuộc Nam Trung Bộ (4-9 ngày có nắng nóng trong tháng 9) và ở một vài tỉnh Tây Bắc (Lai Châu, Điện Biên có 1-2 ngày nóng trên 35°C).

Các đợt mưa lớn tập trung cao điểm vào giữa và cuối vụ Mùa. Lượng mưa ngày lớn nhất tại nhiều trạm lên tới 150-300mm/ngày. Một số kỷ lục mưa ngày được ghi nhận như tại Bắc Quang (Hà Giang) đo được 297mm ngày 3/7, 204mm ngày 5/9; trạm này cũng ghi nhận lượng mưa ngày lớn nhất năm lên tới 654mm (ngày 9/9/2024). Các trạm Định Hóa (Thái Nguyên) ghi nhận 245mm (30/7), Hà Đông (Hà Nội) 190mm (23/7), TP. Thái Nguyên 243mm (23/8). Dông, lốc xảy ra trên phạm vi cả nước với tần suất 4–10 ngày có dông trong tháng. Một số điểm xuất hiện dông rất nhiều: A Lưới (Thừa Thiên Huế) có dông 23 ngày trong tháng 8; Cao Bằng 21 ngày; Đô Lương (Nghệ An) 14 ngày; Cửa Rào (Nghệ An) 12 ngày. Đặc biệt, các tỉnh Nam Bộ vốn ít dông lốc cũng ghi nhận một vài trận lốc xoáy mạnh vào đầu tháng 10 (như tại Thới Bình, Cà Mau ngày 9/10; Giồng Riềng, Kiên Giang ngày 10/10).

Ngoài ra, lũ quét và sạt lở đất đã xảy ra cục bộ ở nhiều nơi trong vụ Mùa 2024, chủ yếu do mưa lớn trên địa hình dốc. Từ tháng 7 đến tháng 10/2024, liên tiếp ghi nhận các trận lũ quét/sạt lở ở khu vực miền núi phía Bắc: ví dụ tại Tây Giang (Quảng Nam) ngày 4/7; Điện Biên ngày 7/8; Mường Tè (Lai Châu) ngày 20/8; Lương Sơn (Hòa Bình) sáng 30/8; Hàm Yên (Tuyên Quang) ngày 22/8; Nguyên Bình (Cao Bằng) ngày 9/9; Mường Lát (Thanh Hóa) ngày 22/9; Bắc Quang (Hà Giang) ngày 29/9,... Ngay cả tại Nam Bộ cũng xảy ra sạt lở nghiêm trọng vào cuối mùa mưa (ví dụ: sạt lở đất tại Long Hồ, Vĩnh Long ngày 5/10; An Phú, An Giang ngày 12/10/2024). Những hiện tượng thiên tai này gây tổn thất về đất đai sản xuất và cơ sở hạ tầng nông thôn.

b) Ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp vụ Mùa 2024

Tác động đến cây trồng (hạn hán và ngập úng): Nhìn chung, vụ Mùa là thời kỳ mưa nhiều nên tình trạng hạn hán ít nghiêm trọng hơn vụ Đông Xuân. Theo dõi chỉ số căng thẳng nước cây trồng (ASI) cho thấy tại các tỉnh ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long, cây trồng chỉ chịu thiếu nước khoảng 10% thời gian sinh trưởng trong vụ; ở Đồng bằng sông Hồng tỷ lệ này cao hơn, khoảng 25-70% thời gian (đặc biệt vào đầu vụ khi mưa chưa đến). Mặc dù có những giai đoạn khô hạn ngắn, nhìn chung lượng mưa vụ Mùa 2024 đã đáp ứng đủ nhu cầu nước cho cây lúa ở hai vùng trọng điểm là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Ngược lại, thách thức lớn trong vụ Mùa là tình trạng ngập úng do mưa quá lớn. Nhiều đợt mưa dông đã gây ngập lụt trên diện rộng, ảnh hưởng tới cây trồng: Đợt mưa lớn ngày 2- 4/7 ở các tỉnh vùng núi phía Bắc (Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Lào Cai) làm hơn 630 ha lúa, mạ và hoa màu bị ngập úng, nhiều diện tích cây lâm nghiệp bị gãy đổ; khoảng 27 ha ao cá bị tràn bờ gây thiệt hại. Tiếp đó, tối 14/7 đến 15/7, do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) bị ngập úng 93 ha lúa Hè Thu; hơn 17 ha hoa màu, rau màu bị mất trắng; 15 ha dưa hấu, 5 ha sắn và 19 ha đậu xanh bị hư hại hoàn toàn. Đến cuối tháng 7, hoàn lưu bão số 2 gây mưa lớn diện rộng ở đồng bằng Bắc Bộ, làm ngập úng hàng chục nghìn ha lúa và hoa màu: tiêu biểu, Hà Nội có khoảng 220 ha lúa, màu bị ngập; Hải Dương 5.270 ha; Hà Nam 6.507 ha; Nam Định 12.340 ha; Thái Bình 3.350 ha bị ảnh hưởng. Gần cuối vụ, đợt mưa lớn ngày 29-30/8 tại Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hòa Bình làm ngập 96 ha lúa và hoa màu (Lào Cai 42,5 ha; Tuyên Quang 27 ha; Thái Nguyên 26,5 ha; Hòa Bình khoảng 0,5 ha); làm chết, cuốn trôi 302 con gia súc, gia cầm (chủ yếu ở Thái Nguyên); và gây ngập 2,95 ha diện tích nuôi thủy sản (Lào Cai 2,5 ha; Thái Nguyên 0,35 ha; Tuyên Quang 0,1 ha).

Thiệt hại do bão, áp thấp nhiệt đới: Mùa bão năm 2024 đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp. Cơn bão số 3 (Yagi) đổ bộ miền Bắc vào đầu tháng 8/2024 gây thiệt hại rất lớn: khoảng 200.248 ha lúa bị ngập úng, hư hại (tính tổng các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ); khoảng 50.612 ha hoa màu bị thiệt hại; 38.104 ha cây ăn quả bị hư hỏng; 3.763 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị cuốn trôi; và làm chết 2.514 con gia súc cùng hơn 3 triệu con gia cầm. Đây là tổn thất chưa từng có do một cơn bão gây ra trong nhiều năm gần đây tại miền Bắc. Tiếp sau đó, bão số 6 (Trà Mi) ảnh hưởng đến các tỉnh Trung Bộ trong tháng 10/2024 cũng gây thiệt hại: 96 ngôi nhà bị tốc mái, hư hỏng; 1.269 ha hoa màu, cây ăn quả bị ngập úng; 1.506 con gia súc và 104.699 con gia cầm bị cuốn trôi; tổng diện tích nông nghiệp bị thiệt hại ước khoảng 1.733 ha. Có thể thấy, các hiện tượng mưa dông, lốc xoáy và đặc biệt là bão/áp thấp nhiệt đới trong vụ Mùa 2024 đã gây thiệt hại nặng nề đối với kinh tế nông nghiệp ở nhiều địa phương miền Bắc và miền Trung.

Sâu bệnh hại: Điều kiện thời tiết nóng ẩm của vụ Mùa tiếp tục tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển trên cây trồng. Tại các tỉnh phía Nam, nhiều đối tượng dịch hại như bệnh đạo ôn, rầy hại lúa và sâu cuốn lá nhỏ trên lúa phát sinh mạnh, gây áp lực bảo vệ thực vật trong vụ mùa. Việc mưa nắng xen kẽ thất thường cũng làm gia tăng nguy cơ sâu bệnh trên cây màu và cây ăn quả (như bệnh thối nhũn, nấm mốc trong thời kỳ mưa kéo dài).

Chăn nuôi: Trong giai đoạn cao điểm nắng nóng, vật nuôi trên phạm vi cả nước chịu ảnh hưởng bất lợi. Nhiệt độ cao và độ ẩm lớn làm giảm khả năng điều hòa thân nhiệt, gia súc gia cầm ăn kém, dễ bị stress nhiệt, dẫn đến tăng trưởng chậm, nguy cơ bùng phát dịch bệnh trong chuồng trại. Ngược lại, vào các đợt mưa lũ lớn, môi trường chuồng trại ẩm ướt, nước ngập gây khó khăn cho việc chăn nuôi và có thể làm phát sinh dịch bệnh hoặc chết rét cục bộ ở đàn gia súc (nhất là ở vùng miền núi khi xảy ra mưa lạnh kéo dài).

4. Kết luận

Năm 2024, điều kiện khí tượng nông nghiệp ở Việt Nam diễn biến theo chiều hướng ngày càng khắc nghiệt. Nhiệt độ trung bình các tháng đều cao hơn so với giá trị trung bình nhiều năm, trong khi tổng lượng mưa có xu hướng giảm ở nhiều thời điểm quan trọng, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nước cho sản xuất nông nghiệp ở nhiều vùng. Đồng thời, các hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng gay gắt, mưa đá, dông lốc, lũ quét xuất hiện với tần suất nhiều hơn, gây thiệt hại nặng nề đối với cây trồng, làm bùng phát dịch hại và ảnh hưởng xấu đến hoạt động chăn nuôi. Đặc biệt, cơn bão số 3 (Yagi) trong mùa mưa bão 2024 đã gây tổn thất nghiêm trọng cho ngành nông nghiệp các tỉnh miền Bắc, cho thấy mức độ dễ bị tổn thương cao của sản xuất nông nghiệp trước các hiện tượng khí hậu cực đoan. Những phân tích, đánh giá trong bài viết này đã cung cấp bức tranh toàn cảnh về điều kiện khí tượng nông nghiệp năm 2024 và các tác động bất lợi đi kèm, qua đó hỗ trợ các nhà quản lý trong việc ra quyết định chỉ đạo sản xuất cũng như giúp nông dân chủ động áp dụng các giải pháp kỹ thuật phù hợp nhằm thích ứng và ứng phó hiệu quả với thiên tai, giảm thiểu thiệt hại.

Nguyễn Đăng Mậu, Nguyễn Hồng Sơn, Dương Hải Yến

 Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Tuấn Thành, Đàm Minh Hoàng, Ngô Minh Tuấn  

Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời, lan tỏa

Ngành thủy sản đề xuất hợp nhất, hình thành viện nghiên cứu mới

Đậu nành Hoa Kỳ - Việt Nam: Ba thập kỷ hợp tác phát triển bền vững ngành nông nghiệp

Vi tảo trong ruộng lúa: “Người hùng thầm lặng” giảm khí nhà kính và cải thiện đất trồng

Nông nghiệp

Phục hồi đất - Gieo mầm sự sống, kiến tạo tương lai

Bắc Giang: Vải chín đỏ ‘vẫy gọi’ mùa bội thu

Đề xuất hợp nhất 2 chương trình quốc gia về nông thôn mới và giảm nghèo bền vững

Xu hướng phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Tài nguyên

Tập trung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2024

Hoàn trả Nhà nước hơn 123,775 tỷ đồng chi phí đánh giá, thăm dò khoáng sản

Thanh Hóa: Quản lý chặt nguồn cát tự nhiên

Tiên phong nghiên cứu, kiến tạo phát triển bền vững ngành địa chất và khoáng sản

Môi trường

Thay đổi nhận thức, thích ứng biến đổi khí hậu

Khu bảo tồn Phú Mỹ: Nhiều hoạt động ý nghĩa về truyền thông giáo dục trong công tác bảo tồn thiên nhiên

Hà Nội đẩy nhanh lộ trình hạn chế xe máy khu vực nội đô, giảm ùn tắc và ô nhiễm

Hòa Bình: Dự án Shosshin Bình Thanh WorldHotels Spa & Resort có dấu hiệu lấn chiếm lòng sông Đà mở rộng dự án, gây ô nhiễm môi trường

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Bài 2: Tái cấu trúc ngành trồng trọt bằng tư duy khoa học và đổi mới

Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia: Môi trường nông nghiệp, nông thôn và phát triển bền vững lần 2

Bài 1: Ghi nhận một số thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật

Nghiên cứu thiết kế hệ thống quan trắc trượt lở đất đá theo thời gian thực dựa trên công nghệ GNSS/CORS

Chính sách

Áp dụng cơ chế đặc thù trong khai thác khoáng sản

Thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Ưu tiên ổn định ngành chế biến gỗ, hoàn thiện pháp lý chính quyền cơ sở

Hành động cụ thể, kiểm tra tận gốc từ nhãn mác đến chất lượng hàng hóa

Phát triển

Ra mắt logo Báo Nhân Dân trên máy bay của Vietnam Airlines nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

Khát vọng xanh trên trang Tạp chí chuyên ngành Nông nghiệp và Môi trường

Hành trình thứ 34: 2.000 cây thông và cuộc hội ngộ giữa đạo - đời trên đỉnh Vân Sơn - Tam Đảo

Công ty cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh duy trì sản xuất điện ổn định, góp phần đảm bảo cung ứng và an toàn hệ thống trong mùa khô 2025

Diễn đàn

Thời tiết ngày 18/6: Vùng núi Bắc Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông, Trung Bộ tiếp tục nắng nóng gay gắt

Thời tiết ngày 17/6: Bắc Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông, Trung Bộ tiếp tục nắng nóng gay gắt

Công ty Xi măng Long Sơn từ lịch sử hướng tương lai

Bản đồ hành chính mới: Dấu mốc của kỳ vọng và khát vọng!