
Kỳ 3: Cơ giới hóa và kinh tế tuần hoàn - hai động lực thúc đẩy nông nghiệp bền vững
17/09/2025TN&MTSau những giải pháp công nghệ xanh (Kỳ 1) và các mô hình ứng dụng thực tiễn từ phòng thí nghiệm tới doanh nghiệp (Kỳ 2), bức tranh toàn cảnh về nông nghiệp Việt Nam tại Hội nghị Khoa học Công nghệ Bảo quản, Chế biến Nông lâm Thủy sản và Cơ giới hóa Nông nghiệp Toàn quốc năm 2025 còn được tô đậm bởi một mảng màu không thể thiếu, đó là cơ giới hóa nông nghiệp. Đây là nền tảng để giảm tổn thất sau thu hoạch, gia tăng năng suất, tiết kiệm chi phí và tiến tới nông nghiệp hiện đại, thông minh và bền vững.
Lúa gạo là nông sản chủ lực của nhiều tỉnh vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
Giảm tổn thất lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long và vấn đề cấp bách
Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước, mỗi năm sản xuất hơn 24 triệu tấn lúa, chiếm gần 60% sản lượng quốc gia. Thế nhưng, như tham luận của GS.TS. Nguyễn Huy Bích - Trường Đại học Nông Lâm TP.Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, sau thu hoạch, khu vực này vẫn để thất thoát từ 10-12%. Con số ấy tưởng chừng nhỏ, nhưng khi nhân lên với hàng chục triệu tấn lúa, thì đó chính là hàng triệu tấn lương thực bị mất đi mỗi năm, tương đương hàng trăm triệu USD trôi tuột khỏi tay nông dân và nền kinh tế.
Nguyên nhân của tình trạng này đã được ông phân tích thẳng thắn, từ thu hoạch thủ công dễ rơi rụng, đến cảnh phơi lúa ngoài trời đầy rủi ro khi nắng mưa thất thường; từ những kho chứa xuống cấp, hệ thống sấy còn manh mún, đến việc chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ chưa chặt chẽ khiến nông dân khó tiếp cận công nghệ mới. “Giảm tổn thất sau thu hoạch chính là tăng thêm sản lượng lúa gạo mà không cần mở rộng diện tích. Đây là con đường ngắn nhất để đảm bảo an ninh lương thực và nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam,” GS.TS. Bích nhấn mạnh.
Lời ông như gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh. Bởi lẽ, chỉ cần giảm được 1% tổn thất, Việt Nam đã có thể giữ lại hàng trăm nghìn tấn lúa mỗi năm, đủ nuôi sống hàng triệu người, hoặc đem lại hàng trăm triệu USD từ xuất khẩu.
Bức tranh càng rõ nét hơn khi so sánh với các quốc gia trong khu vực và thế giới: Thái Lan đã hạ tỷ lệ tổn thất xuống còn 6-7% nhờ cơ giới hóa đồng bộ và hệ thống logistics hiện đại. Ấn Độ - quốc gia từng thất thoát tới 15% sản lượng đã giảm xuống chỉ còn 8-9% nhờ chương trình quốc gia xây dựng kho lạnh và trung tâm sấy. Trong khi đó, Nhật Bản gần như chạm mức lý tưởng khi giữ tổn thất ở ngưỡng 2-3%, nhờ mô hình hợp tác xã kiểu mới, nơi nông dân được trang bị đầy đủ máy móc và quy trình kiểm soát chất lượng khép kín.
So với họ, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang đi chậm. Khoảng cách ấy không chỉ là câu chuyện kỹ thuật, mà còn là bài toán của chính sách và tầm nhìn phát triển. “Nếu chỉ trông chờ vào nông dân và doanh nghiệp nhỏ lẻ thì khó có thể giảm nhanh tỷ lệ tổn thất. Cần một chương trình cấp quốc gia, với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhà nước,” GS.TS. Bích nhấn mạnh!.
Theo ông, có ba trụ cột cần được chú trọng: đầu tư hạ tầng quy mô vùng - từ silo, kho lạnh, trung tâm logistics đến hệ thống sấy hiện đại; mở rộng tín dụng và ưu đãi thuế để nông dân và doanh nghiệp đủ sức đầu tư thiết bị; và đặc biệt là chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực để những tiến bộ khoa học thật sự đi vào cuộc sống.
Nếu làm được điều đó, Việt Nam hoàn toàn có thể đưa tỷ lệ tổn thất lúa gạo ở ĐBSCL từ 10-12% hiện nay xuống còn 6-7% vào năm 2030, tiệm cận chuẩn của Thái Lan. Và khi ấy, những hạt gạo từ miền Tây không chỉ dồi dào về số lượng mà còn vững vàng về chất lượng, góp phần khẳng định vị thế Việt Nam là cường quốc xuất khẩu gạo chất lượng cao, mang lại niềm tự hào trên bàn ăn thế giới.
Cơ giới hoá nông nghiệp để nâng cao chất lượng sản xuất
Cơ giới hóa nông nghiệp: Từ vườn chuối đến luống hành, cây tỏi và cả rừng trồng
Nếu như lúa gạo là nỗi trăn trở lớn nhất của Đồng bằng sông Cửu Long, thì tại nhiều vùng chuyên canh khác, cơ giới hóa lại đang mở ra một lối đi mới cho nông dân. Trong tham luận “Kết quả nghiên cứu hệ thống thiết bị cơ giới hóa một số khâu canh tác chuối quy mô tập trung”, TS. Nguyễn Đức Thật - Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã cho thấy sức mạnh rõ rệt của máy móc trong sản xuất. Việc áp dụng cơ giới hóa vào các khâu làm đất, đào hố, trồng, chăm sóc và thu hoạch giúp giảm 25-30% chi phí lao động, đồng thời nâng năng suất vườn chuối lên đáng kể.
TS. Thật nhấn mạnh: “Nếu như trước đây việc canh tác chuối đòi hỏi nhiều lao động thủ công, thì nay với hệ thống cơ giới hóa đồng bộ, nông dân có thể quản lý diện tích lớn với chi phí thấp hơn, hiệu quả cao hơn”.
Thiết bị sấy gỗ rừng trồng, nâng giá trị sản phẩm lâm nghiệp
Không chỉ trong nông nghiệp, cơ giới hóa còn lan tỏa sang cả ngành lâm nghiệp. Tham luận “Kết quả nghiên cứu tính toán thiết kế, chế tạo thiết bị sấy liên tục ván bóc gỗ rừng trồng công suất 10 m³/ngày” của TS. Nguyễn Trọng Tuân - Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã đưa ra giải pháp cho vấn đề tổn thất và chất lượng gỗ sau khai thác.
Thiết bị sấy liên tục này giúp kiểm soát độ ẩm, rút ngắn thời gian sấy từ 7-10 ngày xuống còn 3-4 ngày, đồng thời tăng tỷ lệ gỗ đạt chuẩn từ 70% lên 90%. Đây là minh chứng rằng cơ giới hóa không chỉ giới hạn trong đồng ruộng, mà còn góp phần nâng cao giá trị sản phẩm lâm nghiệp, mở rộng cơ hội xuất khẩu.
Trong báo cáo “Kết quả nghiên cứu ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ sản xuất hành củ, tỏi tại vùng sản xuất tập trung”, TS. Lê Quyết Tiến - Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã chứng minh sức mạnh của một quy trình cơ giới hóa hoàn chỉnh. Từ làm đất, gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch, việc áp dụng máy móc đã giảm 40% chi phí lao động, nâng năng suất lên 1,3-1,5 lần. Ông Tiến khẳng định: “Cơ giới hóa là chìa khóa để hình thành các vùng sản xuất tập trung, từ đó tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến và xuất khẩu”.
Bên cạnh đó, hàng loạt thiết bị “sát cánh” cùng nông dân cũng được giới thiệu: (1) Máy cuốc quay chăm sóc đậu phộng: giúp giảm tới 70% chi phí lao động, đồng thời hạn chế sử dụng thuốc diệt cỏ, góp phần bảo vệ môi trường. (2) Máy phun thuốc, bón phân dùng xích cao su: có năng suất 2 ha/giờ, tiêu hao nhiên liệu chỉ 0,94 lít/ha, vẫn vận hành ổn định ngay cả trên đất yếu. (3) Máy đóng bầu keo tự động: đạt năng suất 500 bầu/giờ, giảm mạnh chi phí nhân công trong khâu sản xuất cây giống.
Từ những thiết bị nhỏ lẻ cho đến các hệ thống cơ giới hóa đồng bộ, có thể thấy xu thế chung là giảm sức lao động thủ công, nâng cao hiệu quả kinh tế và tiến tới sản xuất quy mô lớn, tập trung.
Những minh chứng từ vườn chuối, ruộng hành, đám tỏi hay cả xưởng sấy gỗ rừng trồng đã cho thấy: cơ giới hóa không còn là khái niệm xa lạ, mà đã len lỏi vào từng ngóc ngách sản xuất. Thế nhưng, đó mới chỉ là bước đầu. Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu, cơ giới hóa Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt mới - tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và thị giác máy tính vào máy móc và quy trình sản xuất.
Như nhóm tác giả Hoàng Gia Minh, Nguyễn Đình Mạnh, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Quyết Tiến (VIAEP) đã chỉ ra trong tham luận “Artificial Intelligence in Agricultural Mechanization in Vietnam: Current Applications, Challenges and Future Directions”, các ứng dụng AI hiện nay ở Việt Nam còn manh mún, thiếu dữ liệu và nhân lực kỹ thuật. Tuy vậy, đây lại chính là cơ hội để nông nghiệp Việt Nam bứt phá, xây dựng mô hình sản xuất thông minh, hiệu quả và bền vững hơn. Nói cách khác, từ những chiếc máy cuốc quay, máy đóng bầu keo, giờ đây nông nghiệp Việt đang từng bước tiến tới những cánh đồng thông minh, nơi thiết bị không chỉ thay thế sức người mà còn biết “học”, “tính toán” và “tối ưu hóa” cho từng mùa vụ.
Từ những con số báo động về tổn thất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long, đến các mô hình cơ giới hóa thành công trên vườn chuối tập trung, ruộng hành, luống tỏi, rồi lan sang cả ngành lâm nghiệp với thiết bị sấy gỗ hiện đại, tất cả đều cho thấy một xu thế không thể đảo ngược: máy móc đang dần thay thế sức người, nâng tầm nông nghiệp Việt Nam.
Nếu như ngày hôm qua, cơ giới hóa chỉ dừng ở việc giải phóng sức lao động thủ công, thì hôm nay và ngày mai, nó đã và đang kết hợp với AI, IoT và chuyển đổi số, mở ra viễn cảnh về những cánh đồng thông minh, chuỗi sản xuất bền vững và hệ sinh thái nông nghiệp tuần hoàn.
Như TS. Lê Quyết Tiến - Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã khẳng định: “Cơ giới hóa chính là chìa khóa để hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo nguyên liệu ổn định cho chế biến và xuất khẩu. Đây là con đường duy nhất để nông nghiệp Việt Nam hội nhập sâu và vững chắc”.
Sản xuất gỗ rừng trồng xuất khẩu
Ba kỳ phóng sự đã khép lại, nhưng dư âm của chúng vẫn còn vang vọng: Công nghệ xanh, nghiên cứu ứng dụng mô hình thực tiễn và cơ giới hóa hiện đại đều đang cùng hướng đến một mục tiêu chung xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam bền vững, thông minh và hội nhập quốc tế. Và hành trình này, chắc chắn sẽ cần đến tầm nhìn chiến lược của Nhà nước, sự vào cuộc mạnh mẽ của doanh nghiệp, cùng tinh thần đổi mới không ngừng của đội ngũ khoa học và người nông dân.
Hồng Minh