Bài 1: Ghi nhận một số thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật

03/06/2025

TN&MTKhông còn là yếu tố hỗ trợ, khoa học công nghệ giờ đây giữ vai trò then chốt trong quá trình tái cơ cấu ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật. Những bước tiến đáng kể về nghiên cứu giống, ứng dụng công nghệ số và mô hình sản xuất thông minh đang góp phần giải quyết những "nút thắt" cố hữu của ngành - từ năng suất, chất lượng đến an toàn sinh học và bảo vệ môi trường.

ảnh minh hoạ

Những bước tiến đột phá đưa khoa học vào đồng ruộng

Theo báo cáo của TS. Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, thời gian qua lãnh đạo và cán bộ ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật từ Trung ương đến địa phương đã chủ động trong công tác chỉ đạo điều hành, đặc biệt là công tác chỉ đạo sản xuất và bảo vệ sản xuất.

Trong lĩnh vực giống cây trồng đã có chính sách (thay đổi hình thức quản lý giống cây trồng theo hướng công nhận, tự công bố lưu hành giống cây trồng. Từ việc công nhận trước đây (theo hai bước công nhận sản xuất thử và công nhận chính thức), được thay bằng công nhận lưu hành (một bước) như: Hỗ trợ cho công tác công nhận, tự công bố lưu hành giống cây trồng mới. Đã khích lệ các tổ chức, cá nhân nghiên cứu chọn tạo giống cây trồng mới, đồng thời giảm chi phí về thời gian cũng như kinh phí công nhận giống cây trồng. Việc quan tâm đến công tác giống đã tạo động lực thúc đẩy việc nghiên cứu, chọn tạo giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng thích ứng với điều kiện bất lợi, phù hợp với từng vùng sinh thái; kết hợp với việc triển khai đồng bộ các biện pháp kỹ thuật đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng. Điển hình năm 2024 sản xuất trồng trọt (tăng khoảng 2,2%), giá trị xuất khẩu ước đạt 27,38 tỷ USD, duy trì các mặt hàng xuất khẩu trên 2 tỷ USD đó là gạo, cà phê, rau, cao su. Hiệu quả, của tăng trưởng ngành, giá trị xuất khẩu nông sản liên tục tăng, đặc biệt sự tăng trưởng nhanh, ngoạn mục của ngành hàng rau - quả, từ chỗ dưới 1 tỷ USD trong vòng hơn 15 năm đã vươn lên trên 6,2 tỷ USD; Giá trị sản xuất trồng trọt/đơn vị diện tích tăng nhanh, từ dưới 100 triệu VND/ha/năm đã vươn lên trên 130 triệu VND/ha/năm tính đến thời điểm những năm 2022.

Đối với lúa gạo, diện tích gieo cấy năm 2024 không tăng (7,08 triệu ha), năng suất trung bình 60,7 tạ/ha (tăng khoảng 0,4 tạ/ha), sản lượng ước đạt 43,02 triệu tấn thóc (tăng khoảng 481 nghìn tấn). Trong đó: Nhóm lúa chất lượng cao (Bắc thơm số 7, TBR225, TBR39-1,  Đài thơm 8, ST24, ST25, RVT, OM18, M5451,…): chiếm 70% diện tích gieo trồng lúa; Nhóm giống lúa có chất lượng trung bình, thấp và giống khác (OM5451, OM6979, OM18, OM20; Khang dân 18, Q5, IR50404, ML48, ML202, nhóm giống lúa lai như nhị ưu 838,...:), chiếm khoảng 29% diện tích gieo trồng lúa toàn quốc; sản phẩm phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Giống lúa được Viện Nghiên cứu Lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Trung tâm Giống cây trồng và Công ty giống cây trồng nghiên cứu chọn tạo. Gạo Việt Nam đạt giải gạo ngon nhất thế giới. Năm 2024, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt mức kỷ lục 9,18 triệu tấn (tăng 12,9%) với kim ngạch xuất khẩu 5,75 tỷ USD (tăng 23%) so với năm 2023.

Bộ giống nhóm cây rau màu ngắn ngày được chọn lọc và tự công bố lưu hành nhiều giống ngắn ngày, rất ngắn ngày, màu sắc, kiểu dáng thay đổi và hấp dẫn theo từng thời kỳ (giống rau cải bắp, su hào, cà rốt, cải ăn lá, cải củ trắng, cải củ đỏ... giống hoa, ngô nếp, ngô ngọt, ngô dẻo ngọt, ngô sinh khối...) đáp ứng rất tốt và nhất nhanh thị hiếu cũng như yêu cầu thị trường.

Đối với sắn, thời gian qua có 9 giống được công nhận lưu hành. Trong đó: có 6 giống (HN3, HN5, HN1, HN36, HN80, HN97: kháng bệnh khảm lá sắn), do Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam công bố; có 02 giống (HL-S12, HL-S14), do Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc; Giống STB1 do Viện KHKT Nông nghiệp Bắc Trung Bộ làm thủ tục công nhận. Đã góp phần tăng sản lượng khoảng 6,2% so với năm 2023. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4-1,5 tỷ USD/ năm, Việt Nam là nước xuất khẩu sắn đứng thứ 2 trên thế giới.

Đối với cây cà phê: Tính đến năm 2024, đã có 20 giống cà phê được công nhận chính thức (TN1, TN2, TR9, TR11, TR12, TR13, TRS1, TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13, TR14, TRS1, Catimor Sla, cà phê dây). Các giống cà phê vối có năng suất cao và chất lượng tốt, chủ yếu là giống do Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã chọn lọc góp phần nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu tới hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó các thị trường nhập khẩu lớn nhất: Đức, Italia, Hoa kỳ, Bỉ, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Philippine, Nga, Trung Quốc, Anh…. Cà phê Việt Nam chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu (đứng thứ 2, sau Brazil). Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần 40% về lượng và 38,6% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng. Năm 2024, xuất khẩu cà phê của Việt Nam thiết lập mốc kỷ lục mới 5,6 tỷ USD (tăng 32,5% so với năm 2023).

Chương trình tái canh cà phê và trồng xen đã góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, được triển khai mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên; tăng hiệu quả sản xuất từ 20-30%, trung bình tăng giá trị khoảng từ 25-40 triệu đồng/ha/năm; hạch toán đối với từng cây trồng xen: xen sầu riêng cho thu nhập tăng từ 400-700 triệu đồng/ha/năm, xen chanh leo tăng từ 150-250 triệu đồng/ha/năm, xen bơ tăng từ 12-240 triệu đồng/ha/năm.

Kết quả triển khai rải vụ đối với cây ăn quả: đã góp phần không để tình trạng ùn ứ quả (thu hoạch quả tập trung, được mùa mất giá), nâng cao hiệu quả kinh tế, trong đó tập trung với 12 loại cây ăn quả (thanh long, xoài, chôm chôm, sầu riêng, nhãn, bưởi, cam, chuối, dứa, bơ, mãng cầu và mít). Tại tất cả các điểm triển khai rải vụ đối với từng loại cây trồng đều có thu nhập tăng so với chính vụ.

Bộ giống cây ăn quả, cây công nghiệp ổn định và cập nhật bổ sung các giống mới, sản xuất và nhân nhanh giống tốt phục vụ cho tái canh, trồng mới các vùng cây ăn quả và cây công nghiệp; Đặc biệt các giống Cà phê, Hồ tiêu, Sầu riêng, Macca, Na, Vải và nhóm cây có múi được nghiên cứu chọn tạo chủ yếu từ Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI).

Nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong công tác chọn tạo giống, bảo vệ cây trồng như: ứng dụng giải mã trình tự gen, công nghệ sinh học; khai thác đánh giá mặt ưu, nhược của gen để từ đó phát huy được những đặc tính có lợi của gen. Bồi dưỡng, tích hợp những gen có lợi theo mục đích của nhà tạo giống: xác định vai trò của ba gen mã hóa yếu tố phiên mã TF và hai gen liên quan đến auxin trong sự phát triển bộ rễ lúa, giúp cây sinh trưởng tốt hơn. Đồng thời, dữ liệu về các tính trạng kích thước hạt, hàm lượng amylose, độ hóa hồ, độ bền gel và mùi thơm của giống lúa địa phương đã được phân tích. Từ đó đã tạo ra được giống cây trồng tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi, tạo ra giống lúa chất lượng, giống kháng bệnh phục vụ cho nâng cao giá trị trong xuất khẩu nông sản.

Sản xuất an toàn đang là hướng đi được các địa phương đặc biệt quan tâm. Các địa phương đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; mở rộng diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn (VietGAP, hữu cơ).                   Ảnh: minh hoạ

Đối với các biện pháp kỹ thuật canh tác trong sản xuất, thống kê của Cục từ năm 2005 đến nay có 227 tiến bộ kỹ thuật về quy trình, biện pháp kỹ thuật được công nhận trong sản xuất như: giống, canh tác (tái canh, rải vụ, tưới tiết kiệm, giảm vật tư….), phòng trừ sinh vật gây hại, thu hoạch sản phẩm trồng trọt được nghiên cứu, ứng dụng vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế trong sản xuất trồng trọt.

Để đảm bảo triển khai đồng bộ và có hiệu quả các định hướng, chiến lược của ngành trong thời gian qua Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã tập trung xây dựng trình ban hành và tổ chức thực hiện một số chương trình trọng tâm giúp cho sản xuất trồng trọt theo hướng bền vững thân thiện với môi trường các Đề án như: (1) Tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt Nam đến năm 2025 và 2030; (2) Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030; (3) Phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; (4) Phát triển các vùng sản xuất rau an toàn, tập trung, bảo đảm truy xuất nguồn gốc gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ đến năm 2030; (5) Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và 2030; (6) Phát triển bền vững cây ăn quả các tỉnh vùng Tây Bắc đến năm 2030; (7) Phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030 (Gồm các cây: cà phê, cao su, chè, điều, hồ tiêu, dừa); (8) Tái canh cà phê giai đoạn 2021-2025; (9) Phát triển ngành hoa, cây cảnh đến năm 2030; (10) Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; (11) Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; (12) Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; (13) Nâng cao sức khoẻ đất và quản lý dinh dưỡng cây đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Triển khai đồng bộ các chương trình đề án góp phần cải thiện môi trường canh tác tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, là tiền đề tạo ra các sản phẩm cây trồng chất lượng, bảo vệ môi trường, sức khoẻ người tiêu dùng.

Nhưng thành tựu chưa đồng đều, ứng dụng còn phân mảnh

Cũng theo báo cáo của TS. Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, hiện nước ta chưa có nghiên cứu tổng thể, đầy đủ cho từng cây trồng quan trọng (được xác định tại chiến lược ngành trồng trọt và các đề án) từ khâu giống, quy trình canh tác (đặc biệt tưới nước tiết kiệm kết hợp bón phân theo nhu cầu của cây, thổ nhưỡng; canh tác giảm phát thải; cơ giới và tự động hóa các khâu sản xuất…), công nghệ sau thu hoạch (thu hoạch, sơ chế, chế biến sâu), các biện pháp xử lý KDTV (phục vụ xuất khẩu); tái chế/sử dụng sản phẩm phụ (kinh tế tuần hoàn); giảm phát thải, gây hại môi trường (kinh tế xanh).

Bên cạnh đó, lĩnh vực này cũng thiếu sự đầu tư lớn/mất cân đối giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng (tập trung nhiều nguồn lực vào nghiên cứu ứng dụng). Thiếu nhà khoa học đầu ngành cho từng chuyên ngành có uy tín trong nước và quốc tế. Thiếu các nhóm nghiên cứu có trình độ, tầm cỡ trong khu vực và quốc tế. Hoạt động hợp tác quốc tế (song phương/đa phương) để hình thành các nhóm hợp tác nghiên cứu quốc tế chưa được thúc đẩy. Chưa có nhiều nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về công nghệ sinh học. Chương trình công nghiệp sinh học chưa đáp ứng được như yêu cầu (chưa có nhiều sản phẩm KHCN được tạo ra hoặc liên kết nghiên cứu với doanh nghiệp để đăng ký và thương mại hóa sản phẩm); Chưa có định hướng nghiên cứu lớn và lâu dài về chương trình này (các nghiên cứu còn tản mạn, chia cắt nhỏ theo từng đơn vị nghiên cứu).

Cơ sở vật chất nghiên cứu: manh mún, chưa có phòng thí nghiệm, địa điểm nghiên cứu ứng dụng đủ lớn (phục vụ các nhóm nghiên cứu quy mô bán sản xuất).

Ngoài ra, còn có những thách thức đối với ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật như: Biến đổi khí hậu và sự xuất hiện của bệnh hại mới; Tiến hóa của tác nhân gây bệnh và kháng thuốc; Sự xuất hiện và tái xuất hiện của bệnh mới; Thiếu giống cây trồng kháng bệnh hiệu quả; Hệ thống giám sát và chẩn đoán còn hạn chế; Thiếu đầu tư và ưu tiên chính sách thấp,... Do đó, trong thời gian tới Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng cần có những giải pháp đồng bộ để từng bước tháo gỡ và giải quyết.

Để khoa học công nghệ thực sự trở thành lực đẩy cho lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật, rất cần những chính sách nhất quán, dài hạn và thực chất hơn trong đầu tư nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và thương mại hóa kết quả khoa học. Cơ chế đặt hàng nghiên cứu theo nhu cầu thực tiễn, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, cùng hệ thống khuyến nông, khuyến học linh hoạt… sẽ là mắt xích quan trọng giúp rút ngắn khoảng cách từ phòng thí nghiệm đến cánh đồng. Chỉ khi chính sách đồng hành cùng nhà khoa học và người nông dân, những thành tựu công nghệ mới có thể phát huy hết giá trị và đóng góp bền vững cho nền nông nghiệp hiện đại, xanh và thích ứng của Việt Nam.

 

Minh Đoàn

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Tín hiệu tích cực từ sản xuất và thương mại nông sản 5 tháng đầu năm

Khơi nguồn tư duy mới, tối ưu hóa nguồn lực quản trị tài nguyên nước

Hội thảo góp ý sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến giá đất

Việt Nam - Iowa ký loạt thỏa thuận trị giá 800 triệu USD về hợp tác nông nghiệp

Nông nghiệp

Thanh Hóa: Nỗ lực toàn diện xóa đói giảm nghèo vùng miền núi

Nông sản OCOP Bắc Ninh hút khách tại chợ phiên an toàn 2025

3 địa phương được công nhận cán đích nông thôn mới

Tháo gỡ vướng mắc trong giao khoán đất lâm nghiệp

Tài nguyên

Nhiều hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Ngày Đại dương thế giới năm 2025 tại Quảng Bình

Bắc Ninh siết chặt xử lý giao đất sai thẩm quyền 

Khẩn trương xây dựng đề án Trung tâm Quy hoạch và Điều tra đất đai

Khai thác khoáng sản hợp lý, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

An Giang bảo tồn các cây di sản

Trồng rừng giữ nước mùa mưa để hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới

Chủ động ứng phó diễn biến bất thường của thiên tai

Gỡ vướng cho việc phân loại rác thải tại nguồn

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Bài 1: Ghi nhận một số thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật

Nghiên cứu thiết kế hệ thống quan trắc trượt lở đất đá theo thời gian thực dựa trên công nghệ GNSS/CORS

TS. Nguyễn Văn Long: Nghị quyết số 57-NQ/TW và bước ngoặt thể chế - Đưa khoa học công nghệ từ “phụ trợ” thành “chủ lực”

Nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp

Chính sách

Phải chặn buôn lậu từ gốc, ngay tại tuyến đầu

Thủ tướng yêu cầu tập trung ứng phó nguy cơ mưa lớn, sạt lở đất, lũ quét và chủ động phòng chống thiên tai

Công nhận 2 địa phương hoàn thành xây dựng nông thôn mới

2 huyện của TP Hải Phòng đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

Phát triển

Bắc Ninh ứng dụng công nghệ trong chăn nuôi: Hướng đi tất yếu cho nông nghiệp hiện đại

Lựa chọn đúng người, đúng việc trong sắp xếp bộ máy

Bắc Ninh: Khơi nguồn hợp tác từ giá trị văn hóa

Bắc Ninh bứt phá với khoa học - công nghệ và chuyển đổi số

Diễn đàn

Lần đầu tiên Việt Nam triển khai kiểm định khí thải xe máy gây ô nhiễm không khí

Thời tiết ngày 5/6: Bắc Bộ ngày nắng gián đoạn, chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 4/6: Bắc Bộ ngày nắng gián đoạn, chiều tối mưa dông

Thanh Hóa: Trao 2.000 lá cờ Tổ quốc cho ngư dân thị xã Nghi Sơn