Nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp

27/05/2025

TN&MTKiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần sự phối hợp đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Việc áp dụng quy định pháp luật, đầu tư công nghệ và nâng cao năng lực quản lý môi trường sẽ góp phần bảo vệ nguồn nước, phát triển bền vững các ngành công nghiệp ở Việt Nam.

Áp dụng các giải pháp công nghệ mới, thiết bị hiện đại, đáp ứng tiêu chí tiết kiệm năng lượng, đồng thời mạnh dạn tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế trong xử lý và tái sử dụng nước thải, bùn cặn đang là một thị trường hấp dẫn. Làm chủ được vấn đề năng lượng trong thu gom, xử lý, tái sử dụng nước và bùn cặn là những bước đầu tư chiến lược, mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.

Nước thải công nghiệp: Nguồn gây ô nhiễm chính tại các dòng sông

Hiện nay, ở Việt Nam đã có 429 khu công nghiệp (KCN) được thành lập, với tổng diện tích đất gần 150.000 ha, phân bổ rộng khắp các vùng miền và tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc và miền Nam. Tỷ lệ lấp đầy các KCN Việt Nam trung bình khoảng 80%. Trong số đó, hơn 300 KCN đã đi vào hoạt động. Cả nước cũng đã có 1.057 cụm công nghiệp (CCN) được thành lập, với tổng diện tích hơn 38.000 ha; trong đó có 728 CCN đi vào hoạt động, với tổng diện tích 24.000 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân 64,7%. Số cơ sở sản xuất đang hoạt động trong các KCN khoảng 12.500 cơ sở. Số cơ sở sản xuất đang hoạt động trong các CCN khoảng 15.000 cơ sở. Ngoài ra, cả nước có khoảng gần 3.000 làng nghề và nhiều cơ sở sản xuất đứng độc lập. Các địa phương có nhiều KCN lớn là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên...

Nước thải ở các KCN - nguồn chính gây ô nhiễm các dòng sông

Bên cạnh những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy phát triển KT-XH, quá trình phát triển công nghiệp nói chung và hệ thống các KCN, CCN, làng nghề nói riêng ở Việt Nam đang tạo ra nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải rắn, nước thải và khí thải công nghiệp. Số KCN có trạm xử lý nước thải (XLNT) tập trung chiếm khoảng 90% số KCN đang hoạt động. Chỉ có 205 CCN có hệ thống XLNT hoạt động. Vấn đề ô nhiễm ở các KCN cũ, các cụm công nghiệp, làng nghề còn rất khó kiểm soát. Số KCN có hệ thống quan trắc nước thải tự động chiếm tỷ lệ 90%. Số KCN đã có công trình phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, hồ sự cố chiếm tỷ lệ 30% (Bộ KH&ĐT, 2024; Bộ TN&MT, 2024; Tạp chí Vneconomy, 2024).

Thực tế cho thấy ở nhiều nơi, nước thải công nghiệp vẫn là nguồn gây ô nhiễm chính tại các dòng sông. Việc tuân thủ các quy định của các doanh nghiệp còn mang tính hình thức, vận hành các hệ thống xử lý nước thải tập trung vẫn mang tính đối phó và chưa thực sự hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất trong ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống, chế biến thuốc lá, sản phẩm dệt, may mặc, da và giả da… đều sử dụng nhiều hóa chất, trong đó có chứa nhiều chất độc hại, nhưng một số chưa quan tâm đến công tác bảo đảm an toàn gây nên rò rỉ các hóa chất độc hại ra môi trường làm ô nhiễm nguồn nước. Hiện vẫn còn nhiều khu, CCN chưa có trạm quan trắc tự động, hay chỉ quan trắc được một số thông số cơ bản, theo yêu cầu tối thiểu, nên việc quản lý chất lượng nước thải vẫn hạn chế. Trong khi đó, năng lực quản lý môi trường ở các địa phương và quản trị môi trường của các doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu.

Mức độ ô nhiễm ngày càng tăng từ các nguồn ô nhiễm điểm và phân tán, với các chất ô nhiễm khó xử lý như các chất hữu cơ bền vững, kim loại nặng, kháng sinh, hoóc môn và các dư lượng thuốc chữa bệnh khác, các chủng vi sinh vật mới… là một thách thức lớn.

Xu hướng công nghệ mới trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp

Trong thập kỷ gần đây, sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đi kèm với tình trạng ô nhiễm nước thải ngày càng nghiêm trọng, đã thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng nhiều công nghệ xử lý nước thải hiện đại. Các công nghệ xử lý nước thải công nghiệp đang tiến tới mục tiêu: Nâng cao hiệu suất xử lý để loại bỏ các chất ô nhiễm, kể cả các chất ô nhiễm truyền thống và các chất ô nhiễm khó phân hủy, các chất ô nhiễm mới nổi, các chất ô nhiễm dạng vết, tăng cường thu hồi tài nguyên, đặc biệt là chất dinh dưỡng, kim loại có giá trị, nước và năng lượng, phù hợp với mô hình kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, đồng thời cho phép doanh nghiệp có thể duy trì và nâng cao vị thế của mình ở các thị trường nhập khẩu khắt khe, hay tạo thêm nguồn thu từ mua bán - trao đổi hạn ngạch phát thải. Đây là hướng đi không thể thiếu trong bối cảnh tài nguyên ngày càng cạn kiệt và yêu cầu khắt khe về môi trường. Có thể kể đến các xu hướng công nghệ xử lý và kiểm soát ô nhiễm chính như:

Công nghệ màng lọc tiên tiến (Màng siêu lọc (UF), lọc nano (NF), thẩm thấu ngược (RO)); Các vật liệu mới như graphene oxide, polyethersulfone, màng phủ TiO2 giúp tăng độ bền của vật liệu và khả năng xử lý, tăng hiệu suất thu hồi các chất có ích như kim loại nặng; Các quá trình oxy hóa tiên tiến (AOPs) (Sử dụng UV/H₂O₂, O₃, photo-Fenton để tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh, phân hủy chất ô nhiễm hữu cơ bền vững); Ứng dụng AI và IoT và các thiết bị quan trắc tự động trong giám sát thông minh.

Công nghệ sinh học tiên tiến: Các công nghệ xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học hiện nay đang được áp dụng bao gồm: Công nghệ AO; AAO; SBR; MBBR; MBR.

Ứng dụng công nghệ mới trong xử lý nước thải: Công nghệ MBR xử lý nước rác ở Đà Nẵng

Bên cạnh đó, các công nghệ sinh học khác tiếp tục được nghiên cứu phát triển. Một số ví dụ như: Một số công ty phát triển các chế phẩm vi sinh, dùng để nhanh chóng thiết lập hệ vi sinh trong bể phản ứng, dùng khi khởi động hay khắc phục sự cố công trình. Công ty Hà Lan Royal HaskoningDHV phối hợp với trường đại học TU Delft phát triển thành công công nghệ Nereda® sử dụng bùn hạt hiếu khí xử lý hay cho bùn ở dạng lơ lửng thông thường, cho phép thời gian xử lý nhanh, tốn ít diện tích, hiệu suất xử lý cao BOD/COD >90%, P >85%, thích nghi được với các loại nước thải có tải trọng cao hay mất cân bằng dinh dưỡng... Sử dụng các loại vi sinh vật biến đổi gen để phân hủy hợp chất clo hữu cơ, PAHs. Ví dụ: Vi khuẩn Pseudomonas putida có thể phân hủy phenol với hiệu suất >90% trong 24h. Công nghệ UASB-plus, EGSB hay IC cho phép nâng cao tải trọng và hiệu suất phân hủy, được áp dụng cho công nghiệp giấy và bột giấy, công nghiệp thực phẩm. Hay sử dụng các vi khuẩn Anammox, Feamox, … để xử lý nước thải với hiệu suất cao và tốn ít năng lượng…

Phòng ngừa và ứng phó sự cố do nước thải tại các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp

Ngay từ khi quy hoạch mặt bằng hệ thống thu gom, thoát nước và xử lý nước thải, cần tính đến sự cần thiết của công trình phòng ngừa, ứng phó sự cố và bổ trí đủ diện tích. Quy hoạch chi tiết 1/500 được phê duyệt sẽ bao gồm công trình phòng ngừa, ứng phó sự cố đối với nước thải công nghiệp.

Giải pháp thiết kế phải đảm bảo công năng của công trình, chất lượng nước sau xử lý đạt quy chuẩn xả thải theo quy định, công trình làm việc với độ an toàn, tin cậy. Các giải pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố phải được thể hiện trong hồ sơ thiết kế xây dựng, trình các cơ quan quản lý Nhà nước thẩm định, phê duyệt khi cấp Giấy phép xây dựng công trình.

Dây chuyền công nghệ, giải pháp thiết kế, bao gồm cả phương án phòng ngừa, ứng phó sự cố, phải được mô tả chi tiết trong Báo cáo Đánh giá tác động môi trường, trong phần giải pháp giảm thiểu tác động môi trường do nước thải và kiểm soát sự cố.

Kiểm soát ô nhiễm nước công nghệ bọt mịn/siêu mịn

Các giải pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố phải được rà soát, kiểm tra xem Chủ đầu tư có thực hiện đúng cam kết theo Báo cáo ĐTM được phê duyệt hay không ở khâu thẩm định, phê duyệt cấp Giấy phép môi trường và khâu kiểm tra xác nhận Hoàn thành công trình BVMT của cơ sở sản xuất, KCN.

Cần xây dựng và phê duyệt Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường (bao gồm cả sự cố do nước thải công nghiệp), thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” và “3 sẵn sàng, 4 tại chỗ”. Đơn vị quản lý vận hành nhà máy/trạm XLNT cần áp dụng các biện pháp sau đây:

Kế hoạch tập huấn về vận hành và bảo dưỡng hệ thống thu gom và xử lý nước thải, vận hành công trình, thiết bị cho cán bộ và công nhân, đảm bảo đúng kỹ thuật. Kế hoạch kiểm định thiết bị và công trình xử lý nước thải và các hạng mục liên quan. Tối ưu hóa vận hành nhà máy/trạm XLNT, đảm bảo công trình được vận hành an toàn, đúng kỹ thuật, hiệu suất cao, tiêu thụ ít năng lượng, hóa chất, vật tư tiêu hao. Có kế hoạch nâng cấp nhà máy/trạm XLNT, cải tiến, đổi mới công nghệ, áp dụng các công nghệ xử lý nước thải tiên tiến, có độ tin cậy cao. Lắp đặt các thiết bị đo lường, giám sát, quan trắc tự động, có độ tin cậy cao, cung cấp các thông tin vận hành theo thời gian thực và tích hợp với các hệ thống điều khiển, tự động hóa SCADA… để tối ưu hóa vận hành, đảm bảo sự an toàn và ổn định của hệ thống, kịp thời phát hiện sự cố. Hướng tới ứng dụng công nghệ thông tin với các phần mềm mô phỏng, kỹ thuật song sinh số, trí tuệ nhân tạo AI… tích hợp với các hệ thống điều khiển, tự động hóa tiên tiến, để tối ưu hóa vận hành, cảnh báo sớm rủi ro, sự cố và kịp thời đưa ra các quyết định can thiệp phù hợp. Kết hợp đồng bộ với kế hoạch tập huấn an toàn lao động, đảm bảo an toàn lao động và đúng quy định; Kế hoạch tập huấn an toàn hóa chất; Kế hoạch tập huấn an toàn cháy nổ.

Người vận hành hệ thống xử lý nước thải cần phải nắm rõ và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và tiêu chuẩn an toàn. Đào tạo và nâng cao năng lực cho nhân viên vận hành rất quan trọng, và có thể được tổ chức theo các hình thức khác nhau.

Căn cứ theo kết quả phân tích tần suất và mức độ rủi ro có thể xảy ra (dùng phương pháp ma trận), mô hình ứng phó sự cố do nước thải tại các KCN được đề xuất theo các cấp độ. Các cấp độ ứng phó sự cố được phân ra như sau: Cấp độ ứng phó sự cố số 1: tại từng cơ sở sản xuất; Cấp độ 2: tại từng cơ sở sản xuất, nơi phát sinh nước thải ô nhiễm, kết hợp với ứng phó tại Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải tập trung của KCN; Cấp độ 3: tại từng cơ sở sản xuất, nơi phát sinh nước thải ô nhiễm, kết hợp với ứng phó tại Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải tập trung của KCN, cộng thêm công trình ứng phó sự cố của KCN; Cấp độ 4: Nước thải sự cố tại Nhà máy XLNT và cả Bể sự cố của NM XLNT KCN đã đầy.

Một số khó khăn, thách thức kiểm soát ô nhiễm do nước thải công nghiệp

Tại các cơ sở sản xuất, năng lực quản lý môi trường còn yếu, thiếu đồng bộ. Doanh nghiệp không có động lực thực hiện sản xuất sạch hơn, tái sử dụng nước thải, thu hồi tài nguyên từ bùn cặn. Doanh nghiệp không nắm được hay khó tiếp cận với các xu hướng, giải pháp công nghệ, thiết bị mới trong xử lý nước thải. Sự kết nối giữa “nhà khoa học” và “doanh nghiệp” còn hạn chế; Các công trình thu gom, xử lý nước thải được xây dựng từ trước, theo cách tiếp cận “đối phó” hay “chỉ làm vừa đủ”, nay đã trở nên lạc hậu và khó đáp ứng yêu cầu khắt khe hơn về quy chuẩn xả thải hay thay đổi quy mô, công nghệ sản xuất; Nhiều cở sở không còn đất để xây dựng hay cải tạo, nâng cấp trạm XLNT. Một số cơ sở công nghiệp nằm xen kẽ khu dân cư gây rủi ro cao về ô nhiễm. Số lượng, thành phần, tính chất nước thải đầu vào phức tạp, lại hay biến động theo yêu cầu sản xuất; Một số doanh nghiệp vận hành hệ thống xử lý nước thải mang tính đối phó, luôn tìm cách giảm thiểu chi phí đầu tư và chi phí vận hành, chưa đạt hiệu quả thực chất. Nhiều cơ sở sản xuất không lắp đặt trạm quan trắc tự động, không có giải pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố do nước thải.

Tại các khu công nghiệp, phần lớn các Nhà máy XLNT đều được thiết kế dựa trên kinh nghiệm của nhà thầu, khi chưa có đầy đủ thông tin về số lượng, thành phần, tính chất nước thải đầu vào. Khi chưa có nước thải thực tế, các nhà thầu đề xuất NM XLNT với kích thước công trình tối thiểu để giảm giá thành và thắng thầu. Khi đưa vào hoạt động, các NM XLNT không có điều kiện để điều chỉnh chế độ vận hành phù hợp với đặc tính nước thải thực tế, dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả.

Các nhà thầu thường thiết kế bể điều hòa với dung tích tối thiểu, với thời gian lưu nước trong bể thường chỉ trong khoảng 4 - 8h tính theo lưu lượng giờ trung bình, với mục đích giảm chi phí cho chủ đầu tư và thêm cơ hội thắng thầu cho nhà thầu. Thực tế đánh giá tình hình hoạt động của các NM XLNT tập trung ở các KCN cho thấy, các bể điều hòa đều thiếu dung tích, không điều hòa được lưu lượng và nồng độ các chất ô nhiễm chảy về NM XLNT. Khi không có đủ thông tin thực tế về loại hình sản xuất, chế độ thải nước và thành phần, tính chất nước thải, thời gian lưu nước cần thiết của bể điều hòa được khuyến cáo tối thiểu 12h tính theo lưu lượng giờ trung bình. Đây cũng là điểm cần xem xét, cập nhật trong Tiêu chuẩn thiết kế TCVN 7957-2023 hiện hành.

Nhiều NM XLNT được thiết kế, đầu tư xây dựng với tinh thần “chi phí tối thiểu’’, thiếu nhiều hạng mục quan trọng như phòng thí nghiệm, các thiết bị đo lường, giám sát, điều khiển, máy bơm, máy ép bùn và máy phát điện dự phòng…

Do năng lực quan trắc dòng nước thải đầu vào NM XLNT tập trung hạn chế, có nhiều nguy cơ dẫn đến sự cố của toàn trạm XLNT. Rủi ro càng cao khi có nhà máy trong KCN xả ra HTTN những chất thải độc hại, đặc biệt khi họ xả vào các thời điểm như cuối ca, ban đêm…

Ở nhiều NM XLNT có công đoạn keo tụ bằng hóa chất, nhưng không làm thí nghiệm keo tụ - lắng để xác định loại và liều lượng hóa chất tối ưu. Việc định lượng hóa chất keo tụ không đúng dẫn đến hiệu suất keo tụ - lắng thấp, hàm lượng chất ô nhiễm, chất độc hại đưa sang bể xử lý sinh học lớn, có thể gây sốc, làm chết vi sinh vật có trong bùn hoạt tính. Rủi ro càng cao khi các nhà máy bất ngờ xả các chất độc hại hay một lượng lớn chất bẩn vào hệ thống thoát nước mà không xử lý sơ bộ, như đã nói ở trên. 

Ở nhiều nơi, chủ đầu tư và đơn vị quản lý vận hành các NM XLNT tìm cách giảm tối đa chi phí vận hành như giảm chi phí năng lượng, hóa chất vận hành, giảm số mẫu phân tích, tránh vận hành bơm và máy thổi khí vào các giờ cao điểm, không bổ sung hóa chất (N, P, polymers, Clo…) như quy trình yêu cầu. Một số NM XLNT không hoạt động liên tục 24/24 để tiết kiệm chi phí. Vận hành, bảo dưỡng, bảo trì thiết bị nhiều nơi không tuân thủ đúng quy trình. Những thực tế này dẫn đến những hỏng hóc thiết bị, sự cố trên hệ thống, làm cho hiệu suất XLNT không đạt yêu cầu…

Các hệ thống làm khô bùn là khâu hay gặp sự cố, trục trặc nhất ở các NM XLNT. Nhiều hệ thống làm khô bùn không hoạt động. Vấn đề vận chuyển, thải bỏ bùn tại nhiều nơi cũng không được quan tâm đúng mức. Nhiều nơi chỉ ký hợp đồng với đơn vị có chức năng vận chuyển, xử lý chất thải và chất thải nguy hại là coi như hết trách nhiệm. Quản lý bùn chứa các chất độc hại như kim loại nặng, dầu mỡ, các chất hữu cơ khó phân hủy… lẫn với bùn sinh học vẫn còn phổ biến.

Việc duy trì công tác bảo dưỡng phòng ngừa, ghi chép nhật ký vận hành, kiểm toán chất thải… ở nhiều NM XLNT còn chưa làm tốt. Nhu cầu về người làm đúng chuyên môn, nhu cầu tại chỗ về đào tạo, tập huấn, tăng cường năng lực cho cán bộ và công nhân vận hành còn rất lớn. Sự sẵn sàng và trách nhiệm của chủ đầu tư và đơn vị vận hành để phòng ngừa, ứng cứu và xử lý sự cố tại các NM XLNT tập trung của các KCN, CCN còn rất hạn chế.

Nguyên nhân các KCN thiếu nhà máy XLNT chủ yếu là do nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm và do cơ chế, chính sách, chế tài xử phạt còn chưa đủ mạnh. Nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động BVMT của các doanh nghiệp hạn chế, do doanh nghiệp cố gắng giảm giá thành sản phẩm và ưu tiên tăng lợi nhuận tài chính. Các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm về BVMT. Các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN khó tiếp cận các nguồn vốn thích hợp để đầu tư xây mới và mở rộng các khu XLNT tập trung. Trên thực tế, nếu chỉ trông vào nguồn thu phí thu gom, XLNT từ các nhà đầu tư, thì chủ đầu tư hạ tầng các KCN khó có thể bù đắp được các chi phí cho việc xây dựng và vận hành hệ thống cống thu gom, trạm bơm, NM XLNT của KCN. Rủi ro càng cao khi NM XLNT phải được xây dựng trước khi các nhà đầu tư xem xét vào KCN, KCN không thu hút được nhà đầu tư, tỷ lệ lấp đầy thấp.

Để nâng cao hiệu quả kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp

Với các cơ sở sản xuất, cần lựa chọn mô hình và công nghệ quản lý nước thải phù hợp và đầu tư thỏa đáng; xác định rõ trách nhiệm và gắn lợi ích lâu dài của doanh nghiệp với bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh và bền vững;

Tích hợp các quá trình xử lý, thu hồi các chất có ích từ nước thải và bùn cặn vào sản xuất sạch hơn, áp dụng càng gần nơi phát sinh chất thải và trước khi các dòng thải bị pha trộn;

Tăng cường áp dụng giải pháp tự động hóa, tích hợp quan trắc - giám sát -  điều khiển để cảnh báo sớm rủi ro và tối ưu hóa vận hành, bảo dưỡng hệ thống;

Thực hiện kiểm toán năng lượng, làm cơ sở triển khai các giải pháp tiết kiệm năng lượng;

Thực hiện cộng sinh công nghiệp (theo hướng tiếp cận KCN sinh thái);

Xây dựng kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố do nước thải, tích hợp với kế hoạch vận hành và bảo dưỡng trạm XLNT, kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất, kế hoạch phòng cháy chữa cháy…

Trên thực tế, có rất nhiều chất ô nhiễm độc hại, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của nhà máy XLNT tập trung của KCN và môi trường; nhiều chất ô nhiễm trong số đó không bị loại bỏ bởi các quá trình xử lý truyền thống tại các cơ sở sản xuất hay tại các Nhà máy XLNT tập trung của KCN và phát tán ra môi trường, thâm nhập vào chuỗi thực phẩm. Việc để “lọt lưới” này, bên cạnh nguyên nhân về công nghệ xử lý chưa đáp ứng, còn có nguyên nhân về mặt quản lý. Để kiểm soát được các chất ô nhiễm đặc thù cho từng loại hình sản xuất, bao gồm các chất ô nhiễm khó phân hủy, các chất ô nhiễm mới nổi, nguyên tố vết,… thì các thông số giám sát cần phải đầy đủ (tần suất có thể giảm hơn so với các thông số ô nhiễm thông thường, tương tự quản lý chất lượng nước cấp cho sinh hoạt, với tần suất giám sát khác nhau cho các nhóm A, B, C) và phải đưa vào ngay từ khi thẩm định Báo cáo ĐTM. Điều này cần được làm đồng bộ với việc thường xuyên cập nhật và cụ thể hóa hơn nữa các thông số trong QCVN 40:2025/BTNMT.

Với các khu công nghiệp, các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật của KCN cần quán triệt nguyên tắc: chỉ tiếp nhận các dự án có công nghệ sản xuất hiện đại, công nghệ cao, thân thiện hoặc ít gây ô nhiễm môi trường; đồng thời, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong kiểm sát ô nhiễm nước thải, khí thải và mùi, bùn cặn.

Dựa trên cơ sở quy chuẩn môi trường, chủ đầu tư xây dựng kinh doanh và hạ tầng KCN xây dựng nội quy cụ thể về nước thải, khí thải, chất thải rắn (CTR) áp dụng cho các khách hàng trong KCN. Các doanh nghiệp thuê đất tại KCN đều phải tuân thủ các quy định về XLNT sơ bộ. Tại các tuyến cống thu gom nước thải từ các nhà đầu tư, cần có các giếng thăm cho phép tiếp cận và lấy mẫu, quan trắc lưu lượng và chất lượng nước thải từ các nhà máy trong KCN. Chủ đầu tư hạ tầng KCN cần thỏa thuận rõ ràng với các chủ đầu tư: về chất lượng nước đầu vào NM XLNT, các biện pháp kiểm tra, xử lý sự cố.

Các doanh nghiệp định kỳ báo cáo kết quả quan trắc kiểm soát chất lượng nước thải, khí thải, tình hình quản lý CTR và chất thải nguy hại cho cơ quan quản lý môi trường địa phương và gửi báo cáo cho đơn vị quản lý hạ tầng KCN. Tiến hành kiểm tra định kỳ toàn bộ hệ thống thoát nước, XLNT của các doanh nghiệp, để có thông tin và đưa ra các giải pháp xử lý thiết thực.

Nhà máy XLNT KCN cần có nguồn phát điện dự phòng. Trạm cần được thiết kế, xây dựng, vận hành với đầy đủ các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, khắc phục sự cố. Quản lý, giám sát chặt chẽ, phát hiện, ứng phó tại chỗ và và thông báo kịp thời cho các đơn vị chức năng phối hợp giải quyết.

Một số giải pháp hướng tới xây dựng NM XLNT tiên tiến, thân thiện với môi trường và bền vững: chọn vị trí và bố trí mặt bằng các công trình hợp lý; thay thế Clo để khử trùng nước thải sau xử lý; đặc biệt quan tâm đến xử lý và thải bỏ bùn, tái sử dụng nước thải, tận dụng nhiệt và các dòng năng lượng khác trong NM XLNT và trong KCN, thu hồi các chất có ích khác; đầu tư đúng mức cho phòng thí nghiệm; hỗ trợ cho vận hành và kiểm soát XLNT; chú trọng đến việc chuẩn bị, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp nhận và vận hành NM XLNT…

Nhìn rộng hơn, các giải pháp quản lý nước thải phải được xem xét, lồng ghép với các biện pháp quy hoạch, xây dựng, tổ chức quản lý khai thác toàn bộ KCN, áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn, tiết kiệm tài nguyên, các mô hình xây dựng KCN xanh, sinh thái, “cộng sinh công nghiệp”, ít và hướng tới không có chất thải, các dụng các công cụ quản lý môi trường cho mỗi cơ sở sản xuất và toàn bộ KCN, với sự tham gia của các chủ đầu tư, ban quản lý KCN, cộng đồng dân cư xung quanh và thị trường tiêu thụ sản phẩm từ khu công nghiệp, các hiệp hội liên quan, các cơ quan quản lý Nhà nước trung ương và địa phương.

Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp

Kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần sự phối hợp đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Việc áp dụng quy định pháp luật, đầu tư công nghệ và nâng cao năng lực quản lý môi trường sẽ góp phần bảo vệ nguồn nước, phát triển bền vững các ngành công nghiệp ở Việt Nam.

Trạm/nhà máy XLNT của cơ sở sản xuất hay KCN cần được thiết kế, xây dựng, vận hành đúng, với đầy đủ các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, khắc phục sự cố. Ý thức, trách nhiệm cùng với quyền lợi của doanh nghiệp và vai trò điều phối, kiểm soát của Nhà nước là những yếu tố quan trọng trong quản lý nước thải công nghiệp.

Áp dụng các giải pháp công nghệ mới, thiết bị hiện đại, đáp ứng tiêu chí tiết kiệm năng lượng, đồng thời mạnh dạn tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế trong xử lý và tái sử dụng nước thải, bùn cặn đang là một thị trường hấp dẫn. Làm chủ được vấn đề năng lượng trong thu gom, xử lý, tái sử dụng nước và bùn cặn là những bước đầu tư chiến lược, mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.

Cần chú trọng đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp, với các hoạt động cụ thể như tăng cường giám sát chủ động đầu vào, ra, các bậc xử lý với các cảm biến có độ tin cậy cao, theo thời gian thực; truyền dữ liệu và tích hợp với quá trình cảnh báo sớm, ra quyết định; ứng dụng mô hình mô phỏng hệ thống bằng cách phát triển dữ liệu lớn, học máy và song sinh số.

Để phòng ngừa, ứng phó sự cố do nước thải công nghiệp, cần áp dụng đồng bộ các giải pháp khác nhau, theo nguyên tắc phòng bệnh hơn chữa bệnh an toàn là trên hết. Các giải pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố cần được tính đến ngay từ khi lập quy hoạch chi tiết, dành diện tích và đầu tư nguồn lực thỏa đáng cho các giải pháp này.

Bên cạnh đó, cần quan tâm cập nhật quy chuẩn xả thải, kiểm soát các chất ô nhiễm đặc thù, khó xử lý, để không phát tán các chất ô nhiễm vào môi trường. Quy chuẩn cần phù hợp với thực tiễn, bám sát trình độ phát triển của công nghệ, thiết bị hiện có, có lộ trình theo hướng chặt dần; đây sẽ là động lực để cải tiến, đổi mới, ứng dụng KHCN trong kiểm soát ô nhiễm. 

Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng các chương trình KHCN theo hướng làm chủ công nghệ kiểm soát ô nhiễm nước thải, khí thải, bùn cặn, hướng tới thực thi kinh tế tuần hoàn với quy mô đủ lớn; theo tinh thần của Nghị quyết 57, thoát khỏi các rào cản về thủ tục hành chính về thẩm định và phê duyệt kinh phí, quản lý tài sản phức tạp; huy động các cơ sở nghiên cứu và chuyên gia tâm huyết trong lĩnh vực, kể cả trong và ngoài nước. Việc xét duyệt các đề tài cần tận dụng tối đa cơ sở dữ liệu số hóa, tránh chồng chéo, trùng lặp, có tiêu chí đánh giá tiềm năng ứng dụng cụ thể. Khuyến khích các nhiệm vụ KHCN có tính kế thừa, dài hơi, có hợp tác với các doanh nghiệp và có sự đầu tư của doanh nghiệp cho nghiên cứu ứng dụng, để đưa được các sản phẩm KHCN từ phòng thí nghiệm ra đến hiện trường, từ làm chủ công nghệ lõi đến phát triển và hoàn thiện được cả quy trình và thiết bị, để có thể ứng dụng được vào thực tiễn một cách khả thi và hiệu quả. Việc đánh giá, thẩm định, công nhận công nghệ phù hợp và hỗ tr thương mại hóa sản phẩm KHCN cũng là một nội dung cần được quan tâm.  

 

GS.TS. Nguyễn Việt Anh
Viện trưởng, Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường (IESE)

 Trường Đại học Xây dựng Hà Nội

Nguồn: Báo cáo tại Hội nghị triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW

của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Khơi nguồn tư duy mới, tối ưu hóa nguồn lực quản trị tài nguyên nước

Hội thảo góp ý sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến giá đất

Việt Nam - Iowa ký loạt thỏa thuận trị giá 800 triệu USD về hợp tác nông nghiệp

Thụy Sĩ - Việt Nam hợp tác hiện đại hóa ứng phó thiên tai

Nông nghiệp

Nông sản OCOP Bắc Ninh hút khách tại chợ phiên an toàn 2025

3 địa phương được công nhận cán đích nông thôn mới

Tháo gỡ vướng mắc trong giao khoán đất lâm nghiệp

Phú Xuyên: Hội Phụ nữ xã Quang Hà phối hợp thôn Phú Nhiêu tổ chức Lễ ra quân “Ngày Chủ nhật xanh”

Tài nguyên

Khẩn trương xây dựng đề án Trung tâm Quy hoạch và Điều tra đất đai

Khai thác khoáng sản hợp lý, tránh lãng phí tài nguyên

Mỗi cán bộ sẽ là một tuyên truyền viên về Luật Đất đai

Phát triển các lĩnh vực mới về địa chất và khoáng sản

Môi trường

Gỡ vướng cho việc phân loại rác thải tại nguồn

Rộn ràng mùa “vá rừng” nơi dẻo cao Tây Bắc

Cần một khung pháp lý chặt chẽ hơn để kiểm soát chất thải dược phẩm

Tổ chức WWF tổng kết dự án “Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam” giai đoạn 2020 - 2025

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Bài 1: Ghi nhận một số thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật

Nghiên cứu thiết kế hệ thống quan trắc trượt lở đất đá theo thời gian thực dựa trên công nghệ GNSS/CORS

TS. Nguyễn Văn Long: Nghị quyết số 57-NQ/TW và bước ngoặt thể chế - Đưa khoa học công nghệ từ “phụ trợ” thành “chủ lực”

Nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp

Chính sách

Thủ tướng yêu cầu tập trung ứng phó nguy cơ mưa lớn, sạt lở đất, lũ quét và chủ động phòng chống thiên tai

Công nhận 2 địa phương hoàn thành xây dựng nông thôn mới

2 huyện của TP Hải Phòng đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

Công nhận 4 huyện về đích nông thôn mới

Phát triển

Lựa chọn đúng người, đúng việc trong sắp xếp bộ máy

Bắc Ninh: Khơi nguồn hợp tác từ giá trị văn hóa

Bắc Ninh bứt phá với khoa học - công nghệ và chuyển đổi số

Sáp nhập Bắc Ninh và Bắc Giang: Bứt phá thành trung tâm công nghiệp, kinh tế lớn phía Bắc

Diễn đàn

Thanh Hóa: Trao 2.000 lá cờ Tổ quốc cho ngư dân thị xã Nghi Sơn

Quảng Trị: Mít tinh hưởng ứng Tháng hành động vì môi trường năm 2025

Doanh nghiệp Việt Nam cần thích ứng hiệu quả với xu thế thương mại và kinh tế số

Tăng thuế thuốc lá: Chính sách “cùng thắng” để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và thúc đẩy tăng trưởng bền vững