Đổi mới tư duy, phát triển bền vững kinh tế biển đảo cho đảo Bạch Long Vĩ, Hải Phòng

15/03/2025

TN&MTTư duy và hành động luôn gắn liền với nhau, tư duy định hướng cho hành động. Tư duy đột phá hướng đến tháo gỡ những khó khăn, phá bỏ những rào cản do các “điểm nghẽn” gây ra, từ đó khơi thông sự phát triển. Việt Nam là quốc gia biển, với đường bờ biển dài hơn 3.260 km và hơn 3.000 hòn đảo, bao gồm 02 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Kinh tế biển là động lực, tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế. Trong quản lý và phát triển kinh tế biển đảo, việc đổi mới tư duy lãnh đạo phát triển là chìa khóa để đưa ra các giải pháp ở tầm chiến lược nhằm phát huy có hiệu quả các nguồn lực, động lực phát triển.

Một số vấn đề lý luận về đổi mới tư duy

Cha ông ta có câu “tư tưởng không thông vác bình tông cũng nặng”, vì thế mối quan hệ tương hỗ giữa tư duy và hành động sẽ tạo ra các giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững địa phương. Đổi mới tư duy, dám bứt phá và thay đổi là nền tảng cho từng bước chuyển mình. Sự phát triển và đổi mới tư duy, trước hết của đội ngũ lãnh đạo, quản lý luôn đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển trong những giai đoạn lịch sử cụ thể; bởi vì, đội ngũ lãnh đạo - quản lý có vai trò, “chức năng” và nền tảng chính trị, pháp lý để tiếp nhận tư duy mới, tư duy phát triển (theo các cấp độ) và “chuyển hóa” những tư duy đó thành nhận thức, quan điểm, định hướng lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “tại sao nhân dân Hải Phòng trước cũng ngần ấy người, nay cũng ngần ấy người, mà nay thành phố tiến bộ hơn trước? Đó là do có cách lãnh đạo, có chính trị. Tại sao nhân dân ta mấy nghìn năm lạc hậu, bị đàn áp bóc lột không làm sao được, mà nay cũng vẫn nhân dân Việt Nam lại làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, xây dựng chủ nghĩa xã hội? Cũng là do có cách lãnh đạo, có chính trị”. Cần xác định rõ đổi mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội là đề cập tới những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách quản lý, mở đường và tạo không gian cho sự phát triển. Việc đổi mới tư duy cần được dựa trên sự rà soát, xác định những “nút thắt” cản trở sự vận hành bình thường của địa phương, hoặc những “điểm nghẽn” về nguồn lực, về thể chế, cơ chế, chính sách.. đồng thời dựa trên cơ sở đánh giá lợi thế cạnh tranh, nguồn lực có ưu thế vượt trội của địa phương; từ đó mới có đủ cơ sở để đưa ra các giải pháp mang tính đột phá.

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng tại Đại hội VI (12-1986) cũng bắt đầu từ đổi mới tư duy khi đất nước rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, đặt ra tình huống “đổi mới hay là chết”. Trọng tâm của đổi mới tư duy giai đoạn này là phải thoát ra khỏi thể chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp; từng bước tiếp cận và đi vào kinh tế thị trường; tìm cách thoát khỏi bao vây, cấm vận, thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Tư duy đổi mới đó là nền tảng lý luận để xây dựng đường lối, chủ trương, chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển đúng đắn, tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu có ý nghĩa.

Hiện nay, đất nước ta đang chuyển động mạnh mẽ hướng tới kỷ nguyên vươn mình, những biến động không ngừng trong môi trường quan hệ quốc tế và sự tác động sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều nhận thức, cách tiếp cận không còn đáp ứng yêu cầu phát triển; không thể “tịnh tiến” một cách cơ học các nhận thức này để làm cơ sở lý luận cho giai đoạn phát triển mới. Điều này đòi hỏi phải có sự đột phá về đổi mới tư duy, với trọng tâm là chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu; phát triển nhanh, bền vững, đồng bộ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái trong bối cảnh hội nhập quốc tế mới.

Tư duy kinh tế xanh thúc đẩy phát triển kinh tế biển đảo

Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về biển, có vị trí địa lý thuận lợi nằm trên đường hàng hải quốc tế, có cảng biển sâu, có điều kiện để phát triển hàng hải, hàng không, du lịch biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản,…Với chiều dài bờ biển 3.260 km, hơn 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, có vị trí địa lý chính trị hết sức quan trọng với hơn 3.000 hòn đảo. Cả nước có 28 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có biển (trong đó có 10 tỉnh và thành phố có hải đảo, quần đảo) với tổng diện tích 208.560 km2 chiếm 41% diện tích cả nước và chiếm gần một nửa dân số Việt Nam. Tính trung bình tỷ lệ diện tích theo số km bờ biển thì cứ 100km2 có 1km bờ biển (so với trung bình của thế giới là 600km2 đất liền có 1km bờ biển). Biển Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng, là khu vực giao thông nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu, châu Úc với Trung Đông. Khu vực biển Việt Nam là một phần của biển Đông, là tuyến đường vận tải dầu hỏa quan trọng tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Biển Việt Nam có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi và có tiềm năng phát triển ngành kinh tế biển phong phú và đa dạng. Những đặc điểm chính của biển đảo Việt Nam là: Có khí hậu nhiệt đới tạo điều kiện cho sinh vật biển phát triển và tồn tại tốt, biển có tài nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú đa dạng và quý hiếm.

Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”. Điều này cho thấy tầm quan trọng và vai trò đặc biệt của kinh tế biển đảo trong chiến lược phát triển của đất nước.

Tuy nhiên, kinh tế biển đảo Việt Nam đang đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức như ô nhiễm môi trường biển, hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản suy giảm, phương thức quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo chậm được thể chế hóa, tác động của biến đổi khí hậu và vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo phức tạp và kéo dài trên Biển Đông...

Thực tiễn cho thấy, muốn phát triển kinh tế biển hiệu quả, tương xứng với lợi thế tiềm năng và cơ hội cần phải có đột phá về tư duy vượt qua thách thức, phát huy nguồn lực, nếu không có tư duy đúng để đưa ra các chính sách hợp lý thì không thể nói đến việc phát triển kinh tế biển thành công. Cần chú ý cách khai thác biển, đảo với tư cách là một trọng tâm ưu tiên quốc gia, không để xảy ra những tranh chấp thể hiện tầm nhìn ngắn hạn; cần chuyển hướng sang các phương thức quản lý, khai thác bền vững gắn liền với bảo vệ, gìn giữ thể hiện rõ quan điểm “biển bạc của ta do ta làm chủ”. Trong đó, xác định chuyển đổi kinh tế từ “nâu” sang “xanh” là cuộc cách mạng tất yếu từ nhận thức tới hành động, không chỉ trong kinh tế biển mà trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Vấn đề đặt ra là: Tất yếu này bắt đầu từ khi nào; trong tình thế nào và bằng xung lực gì; ở cấp độ địa phương có thực hiện được không và bằng cách nào; có phải là vấn đề căn bản hay không; có đúng hướng hay không; theo lộ trình và bằng phương pháp thế nào; có là đột phá và tạo ra đột phá hay không; có đạt được kết quả nổi trội hay không?... Hiểu được những vấn đề ấy thì mới cắt nghĩa sâu sắc được tại sao bước chuyển đổi này mang ý nghĩa đột phá.

Nhìn tổng thể, chuyển đổi mô hình hướng tới phát triển kinh tế biển xanh cần đáp ứng được các yêu cầu lớn: Nhận diện đầy đủ tiềm năng, giá trị riêng biệt, nổi bật cả về yếu tố “thiên tạo” và “nhân tạo” của địa phương; nhận thức một cách đầy đủ các mâu thuẫn, thách thức giữa nhu cầu giải phóng nguồn lực, phát huy tiềm năng, thế mạnh và không gian phát triển rộng lớn với thực trạng của một số thể chế, cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; thức thời, nhạy bén và “dám thay đổi” trong phát huy một cách toàn diện, có chiều sâu và bền vững các nguồn lực phát triển trong mối quan hệ biện chứng với nhau.

Thực tiễn tại huyện đảo Bạch Long Vĩ, Hải Phòng

Bạch Long Vĩ thuộc hệ thống nhóm đảo tiền tiêu, là một trong những đảo xa bờ nhất và là một trong tám ngư trường lớn của Vịnh Bắc Bộ. Huyện đảo Bạch Long Vĩ được thành lập theo Nghị định số 15/CP ngày 09/12/1992 của Chính phủ, là huyện nhỏ nhất trực thuộc thành phố Hải Phòng và cách đất liền khoảng 110 km. Dẫu chỉ là một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi vỏn vẹn có diện tích khoảng 2,5 km2 khi thủy triều lên và xấp xỉ 4 km2 khi thủy triều xuống, nhưng đảo Bạch Long Vĩ lại có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh quốc phòng và kinh tế - xã hội. Chính vì thế việc xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội huyện đảo luôn được Đảng, Chính phủ và thành phố Hải Phòng đặc biệt quan tâm.

 

Với vị trí chiến lược, huyện đảo Bạch Long Vĩ có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển tổng hợp đa ngành như nghề cá và dịch vụ hậu cần nghề cá, vận tải biển và giao thương quốc tế, dịch vụ dầu khí và du lịch; đồng thời chứa đựng các giá trị địa chiến lược quan trọng về đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Vùng biển Bạch Long Vĩ là 1 trong 8 ngư trường lớn của Vịnh Bắc Bộ với diện tích 1.500 hải lý vuông, độ sâu trung bình 35 - 55 m (nơi sâu nhất 60 - 70m), nền đáy tương đối phẳng thuận lợi cho đánh bắt, khai thác. Vùng biển Bạch Long Vĩ có tới 395 loài gồm 229 giống thuộc 105 họ với những loài có giá trị kinh tế cao như: Cá song, cá mú, nhiều loài rong quý hiếm như rong câu, rong loa gai, rong mơ, rong quạt 4 lớp…

Đặc biệt, vùng biển Bạch Long Vĩ được coi là thủ phủ của bào ngư- mang giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Bên cạnh đó, Bạch Long Vĩ là khu vực có hệ sinh thái san hô phong phú, chiếm 47,2% số loài đã được phát hiện ở Việt Nam. Là huyện đảo nằm đơn lẻ giữa Vịnh Bắc Bộ, Bạch Long Vĩ có điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một trung tâm tìm kiếm cứu nạn trên biển thực hiện các dịch vụ cứu hộ, cứu nạn, thông tin cảnh báo thiên tai về gió, bão và lốc tố trên biển. Đặc biệt, nhu cầu dịch vụ y tế trên biển, mang tính nhân đạo và hỗ trợ người dân hoạt động kinh tế và thực hiện các quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên Vịnh Bắc Bộ. Thông qua Vịnh Bắc Bộ là những tuyến đường hàng hải quan trọng của Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc với các nước trong khu vực và quốc tế, đặc biệt là từ cảng Hải Phòng (Việt Nam), Hạ Long, Cẩm Phả (Quảng Ninh) và Bắc Hải (Trung Quốc); trong đó, Bạch Long Vĩ có vai trò là cửa ngõ, là đảo án ngữ, kiểm soát con đường hàng hải quốc tế huyết mạch quan trọng này. Huyện đảo Bạch Long Vĩ nằm  ở trung tâm Vịnh Bắc Bộ,  cách các  điểm du lịch ven bờ như Cô Tô, Hạ Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn và Trà Cổ khoảng 1 -1h30’ bay bằng thuỷ phi cơ. Các tàu du lịch biển có thể dễ dàng ghé vào đảo trong các hành trình xuyên biển. Bạch Long Vĩ có cảnh quan thiên nhiên độc đáo với một đảo kích thước không quá nhỏ, có đủ không gian đồi, thềm bãi cát biển và bãi tảng. Hệ sinh thái rạn san hô của vùng đảo Bạch Long Vĩ phát triển nhất Vịnh Bắc Bộ, độ phủ lớn (có nơi đã từng có độ phủ đến 90%), đa dạng sinh học cao, cảnh quan ngầm còn được bảo vệ tốt, là khu bảo tồn biển quốc gia đầu tiên được Thủ tướng chính phủ phê duyệt (năm 2013), có tiềm năng để phát triển công viên biển, khai thác du lịch sinh thái ngầm và du lịch khoa học.

Theo Hiệp định phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc ký kết ngày 25/12/2000 tại Bắc Kinh thì diện tích vịnh phía Việt Nam chiếm khoảng 53,23%. Bạch Long Vĩ là điểm gần đường phân định (từ điểm số 9 đến điểm số 21) nhất về phía Đông (cách khoảng 15 hải lý). Đặc biệt, theo quy định của Hiệp định, đảo Bạch Long Vĩ được hưởng khoảng 25% hiệu lực, mang lại cho Việt Nam khoảng 300 km2 giữa vịnh với những tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong khối nước và lòng đất dưới đáy. Bạch Long Vĩ có vai trò tiền đồn hậu cứ kiểm soát tình hình an ninh trật tự trên biển, phòng thủ từ xa, làm tốt việc phát triển kinh tế, kết hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, huyện đảo Bạch Long Vĩ đang phải đối mặt với nhiều thách thức như sự suy thoái tài nguyên và môi trường biển; các vấn đề đảm bảo an sinh xã hội; các nguy cơ an ninh, quốc phòng... Nhận diện được các ưu thế tài nguyên vị thế và các “yếu điểm” và nguy cơ tiềm tàng là cơ sở để thực hiện sự đột phá trong chính sách và định hướng phát triển không chỉ huyện đảo Bạch Long Vĩ mà cho các vùng biển đảo trong cả nước.

Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức bộ máy và đổi mới tư duy lãnh đạo

Việc xác định rõ điều kiện để hình thành tổ chức bộ máy tinh gọn, đầy đủ, phù hợp với điều kiện địa phương là nền tảng cho việc quản trị tốt. Trong đó cần chú trọng xây dựng văn hóa cam kết, văn hóa đồng hành, văn hóa thực thi của chính quyền địa phương; kiên định tư duy “chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ” với tinh thần “5 thật” “6 dám”. Cần xác định rõ mục đích cuối cùng của hoạt động lãnh đạo trong khu vực công, đó là tạo ra giá trị công (cốt lõi là lợi ích công). Vì vậy, tư duy đúng về mục đích cuối cùng của hoạt động lãnh đạo trong khu vực công ở nước ta, đó chính là “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Không làm bất cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân dân”.

Thứ hai, kiến tạo cảnh quan, hạ tầng cơ sở phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế biển đảo theo hướng xanh bền vững

Để phát triển kinh tế biển xanh, bền vững tại huyện đảo Bạch Long Vĩ, cần xác định rõ việc quy hoạch, kiến tạo cảnh quan và hoàn thiện cơ sở hạ tầng theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nền tảng quan trọng. Được sự quan tâm, huyện đã được đầu tư cơ bản về điện, đường, nước, trường, trạm...tuy nhiên, hệ thống đường của huyện đảo cần được tu sửa để phù hợp với định hướng phát triển du lịch chủ quyền, du lịch tâm linh và các khu chế biến, dịch vụ hậu cần nghề cá và dầu khí; cần có sự đột phá hướng tới một số dự án lấn biển để xây dựng một số hạ tầng lưỡng dụng như sân bay, cảng tàu...Đặc biệt cần nghiên cứu, đầu tư khu xây dựng, hoàn thiện hệ thống xử lý rác thải rắn sinh hoạt (hiện nay, huyện đã tiến hành thu gom, tập kết tại bãi rác chung nhưng chưa có hệ thống xử lý rác thải gây tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng), xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt để giảm tình trạng xả thải trực tiếp vào môi trường biển.

Đối với nghề cá, cần tiến hành điều tra cập nhật tình hình về thành phần, trữ lượng nguồn lợi hải sản tại các ngư trường làm cơ sở để tính toán quy hoạch lại số tàu thuyền và lao động nghề cá, phát triển hợp lý số lượng, công suất tàu cũng như lao động trên các tuyến biển. Cần có quy định và chế tài xử lý về cấm khai thác hải sản tại các vùng biển và ngư trường vào mùa cá sinh sản thống nhất từ Trung ương đến địa phương (chính sách cấm biển có thời hạn), đồng thời có chính sách hỗ trợ hợp lý ngư dân làm nghề khai thác hải sản vào thời gian nghỉ khai thác. Tiến hành đánh giá sức chứa của đảo (khía cạnh tự nhiên và xã hội) để quy hoạch bố trí dân cư và định hướng phát triển sinh kế phù hợp. Khôi phục, tái tạo nguồn lợi hải sản và bảo vệ môi trường sống của các loài hải sản, đặc biệt là các bãi sinh sản, nơi tập trung cư trú của các loài thủy sản.

Thứ ba, phát triển kinh tế biển đảo kết hợp với đảm bảo an ninh quốc phòng

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí chiến lược của biển, đảo “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không?”. Với vị trí đảo tiền tiêu biên giới, việc phát triển kinh tế-xã hội trên vùng biển đảo Bạch Long Vĩ cần được xác định là ưu tiên chiến lược về chính trị và an ninh. Các quy hoạch bố trí dân cư, phát triển kinh tế, kiến tạo cảnh quan cần có sự tham gia chặt chẽ của ngành quốc phòng. Các công trình được đầu tư, xây dựng trên đảo phải đáp ứng tiêu chí công trình “lưỡng dụng”, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng.

Thứ tư, phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển kinh tế biển đảo

Thực tiễn cho thấy, chỉ có cộng đồng dân cư tham gia quản lý tài nguyên và môi trường biển mới đảm bảo khai thác, sử dụng bền vững, hiệu quả tài nguyên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường. Các huyện đảo có thể học tập kinh nghiệm và triển khai một số mô hình cộng đồng tham gia bảo tồn và khai thác, sử dụng bền vững các hệ sinh thái biển được áp dụng thành công như: Mô hình quản lý rừng dừa nước ven sông Hoài, Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm (xã Tân Hiệp, Hội An); Khu bảo tồn biển Lý Sơn (Quảng Ngãi)...để thực hiện việc bảo tồn sinh thái và môi trường biển, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển xanh.

Bên cạnh đó, cộng đồng ngư dân trên biển và cư dân trên đảo vừa là người lao động đóng góp trực tiếp vào cho nền kinh tế, an ninh lương thực và dinh dưỡng, nhưng đồng thời có thể là lực lượng bổ sung, cảnh giới, phát hiện, thông báo cho các cơ quan chức năng về tình hình trên biển và tham gia tìm kiếm cứu nạn, góp phần ngăn chặn sự xâm nhập trái pháp luật của tàu, thuyền nước ngoài trong vùng biển của Tổ quốc. Do đó, bên cạnh việc các đơn vị lực lượng vũ trang trên địa bàn tổ chức triển khai duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, chủ động xây dựng, điều chỉnh kế hoạch, luyện tập thuần thục các phương án thì huyện đảo cần thực hiện tốt các cuộc diễn tập phòng thủ toàn dân; huy động người dân tham gia tích cực vào công tác giám sát, chống và không tham gia đánh bắt cá trái phép, tham gia cứu hộ, cứu nạn và ngăn chặn sự xâm nhập bất pháp của các đối tượng vào Việt Nam bằng đường biển và có thể xem xét xây dựng và đào tạo lực lượng dân quân biển cũng như tập huấn cho ngư dân và cư dân đảo cách ứng xử khi gặp các tình huống đặc biệt trên biển.

Bùi Trung Tiến

 Bí thư Huyện ủy huyện Bạch Long Vĩ, Hải Phòng

Đoàn Thị Thu Hương

 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Việt Nam - Venezuela khai mở tiềm năng hợp tác nông nghiệp, đầu tư song phương

Việt Nam - Vương quốc Anh: Hợp tác mở rộng thị trường nông sản

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Phát động Cuộc thi viết “Vượt lên số phận” lần thứ VIII

Long An: Top 2 địa phương cải cách mạnh nhất theo PCI 2005 - 2024

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to

Thời tiết ngày 11/5: Mưa to trải dài khắp đất nước, nhiều nơi mưa trên 60mm