
Kinh tế tuần hoàn - Xu hướng tất yếu và cơ hội cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới
01/08/2025TN&MTKinh tế tuần hoàn (KTTH) là xu hướng tất yếu nhằm ứng phó với khủng hoảng tài nguyên, biến đổi khí hậu và nâng cao chất lượng tăng trưởng bền vững. Kinh tế tuần hoàn tổ chức lại mô hình sản xuất, tiêu dùng theo hướng giảm khai thác tài nguyên, kéo dài vòng đời sản phẩm và tái tạo giá trị từ chất thải.
Các nguyên tắc cốt lõi gồm: thiết kế tái tạo, loại bỏ khái niệm chất thải, giữ nguyên giá trị sản phẩm và chuyển từ tiêu dùng tuyến tính sang tiêu dùng tuần hoàn. KTTH giúp doanh nghiệp tối ưu chi phí, tăng khả năng thích ứng và tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và xây dựng hệ sinh thái công nghiệp sinh thái. Tại Việt Nam, KTTH mở ra nhiều cơ hội trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, năng lượng và xử lý rác thải. Quá trình chuyển đổi đối mặt với nhiều thách thức như thói quen tiêu dùng, hạn chế công nghệ, thiếu hạ tầng tái chế, khung pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu vốn và nhân lực chất lượng. Để thúc đẩy KTTH, cần đồng bộ các giải pháp: cải cách chính sách, đổi mới công nghệ, phát triển tài chính xanh, hợp tác công tư, xây dựng văn hóa sống tuần hoàn và tăng cường hợp tác quốc tế. KTTH là mô hình phát triển mới và là nền tảng chiến lược giúp Việt Nam hướng tới tương lai xanh, bao trùm và bền vững.
Circular economy (CE) is an inevitable trend to respond to resource crises, climate change, and to enhance the quality of sustainable growth. CE reorganizes production and consumption models by reducing resource extraction, extending product lifecycles, and regenerating value from waste. Its core principles include regenerative design, eliminating the concept of waste, maintaining product value, and shifting from linear consumption to circular consumption. CE helps businesses optimize costs, increase adaptability, and drives innovation as well as the development of industrial ecosystems. In Vietnam, CE opens many opportunities in agriculture, industry, construction, energy, and waste management. The transition faces various challenges such as consumer habits, technological limitations, lack of recycling infrastructure, incomplete legal frameworks, 18insufficient capital, and skilled workforce shortages. To promote CE, a coordinated approach is needed, including policy reform, technological innovation, development of green finance, public-private partnerships, building a culture of circular living, and strengthening international cooperation. CE is a new development model and a strategic foundation guiding Vietnam toward a green, inclusive, and sustainable future.
Vai trò của kinh tế tuần hoàn trong nâng cao chất lượng tăng trưởng trong kỷ nguyên mới
Trong kỷ nguyên mới, kinh tế tuần hoàn (KTTH) đã và đang trở thành xu hướng tất yếu, giúp đối phó với khủng hoảng tài nguyên và biến đổi khí hậu và kiến tạo một mô hình phát triển bền vững, bao trùm và hiệu quả. Từ góc nhìn kinh tế học môi trường và tài nguyên, KTTH là một phương thức tổ chức lại các hoạt động sản xuất - tiêu dùng theo hướng nội sinh hóa dòng vật chất, hạn chế tối đa khai thác tài nguyên nguyên sinh, giảm phát thải và tạo ra giá trị gia tăng từ chất thải. Theo lý thuyết phát triển bền vững, KTTH góp phần hài hòa ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, bằng cách tối ưu hóa hiệu suất sử dụng tài nguyên và kéo dài vòng đời sản phẩm trong chuỗi giá trị.
PGS. TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường phát biểu đề dẫn: “Kinh tế tuần hoàn, xu hướng tất yếu và cơ hội cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới” tại Hội thảo“Mô hình kinh tế tuần hoàn: Hiệu quả cho doanh nghiệp và môi trường” do Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 22/7/2025
KTTH được hiểu là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ được tổ chức nhằm giảm khai thác nguyên liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Các nguyên tắc cốt lõi của KTTH bao gồm: thiết kế tái tạo (design for regeneration), giữ nguyên giá trị sản phẩm và vật liệu, loại bỏ khái niệm chất thải và chuyển từ tiêu dùng tuyến tính sang tiêu dùng tuần hoàn. Trên thế giới, nhiều mô hình KTTH đã được ứng dụng thành công như mô hình chia sẻ (Airbnb, Grab), mô hình tái chế nguyên liệu (Ellen MacArthur Foundation (2021), Loop), mô hình vòng đời khép kín (Bosch, Philips), hay mô hình công nghiệp sinh thái (Kalundborg, Đan Mạch), giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng khả năng thích ứng với khủng hoảng nguyên liệu và mở ra thị trường mới, cơ hội đổi mới sáng tạo.
Kinh tế tuần hoàn định hình lại cách tiếp cận tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng thay vì chạy theo số lượng. Trong mô hình, tài nguyên không bị tiêu dùng theo tuyến tính rồi thải bỏ, mà được lưu giữ trong nền kinh tế lâu hơn qua tái sử dụng, tái chế và tái sản xuất. Quá trình làm giảm áp lực lên hệ sinh thái, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên trong từng mắt xích sản xuất và tiêu dùng. Khi các chuỗi giá trị được tổ chức lại theo nguyên tắc tuần hoàn, doanh nghiệp tiết giảm chi phí vận hành, tối ưu hóa hiệu suất nguyên liệu, đồng thời giảm thiểu lượng phát thải ra môi trường. Lợi nhuận không đến từ khai thác thêm, mà từ sáng tạo và tối ưu hóa dòng chảy tài nguyên đang có.
Kinh tế tuần hoàn mở ra khả năng xây dựng hệ sinh thái kinh tế linh hoạt, bền vững hơn trong dài hạn. Các ngành sản xuất không còn đơn lẻ, mà kết nối thành mạng lưới trao đổi vật liệu và năng lượng. Doanh nghiệp trong lĩnh vực chế tạo có thể trở thành nguồn cung vật liệu đầu vào cho ngành xây dựng, công nghiệp nhẹ có thể hợp tác với khu vực nông nghiệp để tận dụng phụ phẩm sinh khối. Liên kết giúp giảm lãng phí và tạo động lực hình thành những cụm công nghiệp sinh thái, làm gia tăng năng suất toàn xã hội mà không gây thêm áp lực lên môi trường sống.
Kinh tế tuần hoàn đặt nền móng cho chiến lược đổi mới mô hình sản xuất. Việc chuyển từ thiết kế sản phẩm dùng một lần sang thiết kế tái chế, tách rời mô hình lợi nhuận khỏi tiêu hao tài nguyên, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ sạch và các quy trình khép kín. Khi các nguồn nguyên liệu sơ cấp ngày càng khan hiếm và bị kiểm soát chặt chẽ qua thuế carbon, doanh nghiệp áp dụng kinh tế tuần hoàn sẽ giữ được lợi thế cạnh tranh thông qua năng lực thích ứng, tiết kiệm, chủ động nguyên liệu, kiểm soát chi phí và xây dựng thương hiệu bền vững.
Kinh tế tuần hoàn định hướng lại mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Mô hình tạo ra các tầng giá trị mới trong quy trình thu gom, phân loại, sửa chữa và tái sử dụng, giúp người lao động phổ thông có thêm cơ hội tiếp cận công ăn việc làm ổn định, ngay cả khi họ không có kỹ năng kỹ thuật cao. Sự phát triển của kinh tế tuần hoàn không đòi hỏi phải tập trung hóa sản xuất, mà cho phép hình thành các mô hình quy mô vừa và nhỏ tại địa phương, phù hợp với điều kiện kinh tế đa dạng và cơ cấu dân cư đặc thù của Việt Nam. Qua đó, lợi ích kinh tế không bị tập trung vào một nhóm nhỏ, mà lan tỏa tới nhiều tầng lớp xã hội khác nhau.
Kinh tế tuần hoàn tạo áp lực tích cực buộc chính sách công phải chuyển hướng sang hỗ trợ đổi mới sáng tạo, cung cấp cơ chế tài chính xanh, cải cách quy chuẩn kỹ thuật và thúc đẩy hợp tác liên ngành. Nhà nước giữ vai trò thiết kế thể chế thúc đẩy thay đổi hành vi của cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Khi chất thải trở thành nguồn lực, mô hình kinh doanh phải tính đến vòng đời sản phẩm ngay từ giai đoạn thiết kế. Người tiêu dùng được khuyến khích lựa chọn sản phẩm bền vững thông qua hệ thống nhãn sinh thái, ưu đãi thuế và nền tảng minh bạch về vòng đời sản phẩm. Thị trường được tổ chức theo hướng hiệu quả hơn và phù hợp với các mục tiêu phát triển dài hạn, tạo điều kiện để Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng chất lượng, ổn định và bao trùm.
Tại Việt Nam, tiềm năng KTTH rất lớn trong các lĩnh vực như nông nghiệp (tái sử dụng phụ phẩm), công nghiệp (thu hồi nhiệt, sử dụng vật liệu tái chế), xây dựng (vật liệu xanh), năng lượng (năng lượng tái tạo), giao thông (điện khí hóa phương tiện), và đặc biệt là trong lĩnh vực rác thải và năng lượng tái tạo. Lý thuyết về tác động của chính sách công chỉ ra rằng hành vi của doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể thay đổi mạnh mẽ khi chính sách đủ minh bạch, có hệ thống khuyến khích và chế tài hợp lý. Quyết định 222/QĐ-TTg (2025) đã đưa ra Kế hoạch hành động quốc gia về KTTH đến năm 2035, yêu cầu tích hợp KTTH ngay từ giai đoạn lập quy hoạch, thiết kế sản phẩm và sản xuất. Điều 142 của Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định rõ trách nhiệm của các bên trong thực hiện KTTH, từ cơ quan nhà nước đến cơ sở sản xuất, thương mại. Quyết định 21/2025/QĐ-TTg và Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2025 tiếp tục cụ thể hóa cơ chế khuyến khích tài chính xanh, lộ trình và tiêu chí thực hiện KTTH trong các lĩnh vực gây ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí, theo hướng thích ứng với điều kiện kinh tế - xã hội từng địa phương.
Thị trường tín chỉ điện và phương tiện xanh đã trở thành động lực chính thúc đẩy chuyển đổi sang KTTH trong lĩnh vực giao thông. Cơ chế định giá carbon, tín chỉ xe điện và hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ sẽ giúp Việt Nam tạo ra thị trường nội địa về tái chế, điện sạch, và phương tiện thân thiện với môi trường. Ngành nhựa, xi măng, năng lượng tái tạo đã sẵn sàng đầu tư nếu có hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư xanh, ổn định, minh bạch và có sự đồng hành của nhà nước. Kinh tế tuần hoàn, xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn, là một lựa chọn chiến lược và là một tất yếu trong hành trình chuyển đổi mô hình phát triển của Việt Nam. Đây là cơ hội để tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh hóa, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, gia tăng nội lực công nghệ và quan trọng hơn, tạo nền tảng cho một tương lai phát triển bền vững và công bằng.
Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi chuyển đổi sang mô hình Kinh tế tuần hoàn trong kỷ nguyên mới
Kinh tế tuần hoàn mở ra không gian mới để tái định hình tư duy phát triển. Từ chỗ coi chất thải là hệ quả tất yếu, mô hình thúc đẩy cách nhìn nhận chất thải là nguồn tài nguyên chưa khai thác. Doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận lại toàn bộ chuỗi giá trị của mình để tìm kiếm điểm gãy, khâu lãng phí, khu vực tiêu hao lớn về nguyên liệu, năng lượng và nguồn lực. Chuyển đổi tạo cơ hội hình thành những chiến lược sản xuất khép kín, nơi nguyên liệu đầu vào được tái sinh từ sản phẩm cuối vòng đời, giúp giảm chi phí, ổn định đầu vào và nâng cao khả năng kiểm soát rủi ro.
Kinh tế tuần hoàn cho phép hình thành những ngành nghề hoàn toàn mới, từ đó tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Việc tái chế kim loại từ rác thải điện tử, tận dụng bã thải từ ngành thực phẩm để sản xuất phân bón hữu cơ, khai thác khí sinh học từ rác thải hữu cơ là những hướng đi đang mở rộng biên giới kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình và hợp tác xã có thể tham gia vào các mắt xích khác nhau của chuỗi giá trị tuần hoàn, từ thu gom, phân loại, đến sản xuất sản phẩm tái chế. Không gian đổi mới sáng tạo trong mô hình đặc biệt rộng mở cho thế hệ trẻ và giới khởi nghiệp, những người sẵn sàng tiếp cận công nghệ mới, thiết kế lại mô hình kinh doanh theo hướng linh hoạt và dựa trên nền tảng số.
Kinh tế tuần hoàn tạo điều kiện để xây dựng các đô thị sinh thái, hệ thống sản xuất phân tán, chuỗi cung ứng ngắn và cộng đồng tiêu dùng có trách nhiệm. Tăng trưởng không còn phụ thuộc vào việc mở rộng sản lượng mà dựa vào nâng cao hiệu suất. Những khu công nghiệp có thể được thiết kế lại theo nguyên lý cộng sinh, nơi chất thải của doanh nghiệp này là nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp khác. Quá trình giảm áp lực lên hạ tầng xử lý chất thải, tiết kiệm chi phí quản lý môi trường cho địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng không khí, nước và đất. Môi trường sống lành mạnh hơn mang lại lợi ích lâu dài cho sức khỏe cộng đồng, giảm áp lực cho hệ thống y tế và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.
Kinh tế tuần hoàn tạo ra điều kiện thuận lợi để Việt Nam từng bước tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu có tính bền vững cao. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đang đặt ra yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, chứng nhận môi trường, kiểm soát khí thải và trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Những doanh nghiệp sớm áp dụng mô hình tuần hoàn sẽ có cơ hội tiếp cận các thị trường tiêu dùng cao cấp, nơi sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm thân thiện môi trường. Ngoài lợi ích thương mại, việc thực hành mô hình còn nâng cao năng lực thương hiệu quốc gia, giúp Việt Nam được nhìn nhận là nền kinh tế có trách nhiệm và sẵn sàng thích ứng với các xu hướng toàn cầu.
Kinh tế tuần hoàn giúp thúc đẩy quá trình chuyển đổi chính sách theo hướng bền vững hơn. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ kinh tế, tài chính và pháp lý để điều chỉnh hành vi thị trường, tạo ra cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất sạch, thiết kế sản phẩm thân thiện môi trường. Những chính sách về thuế tài nguyên, phí chất thải, tín dụng xanh, tín chỉ carbon sẽ là nền tảng để điều phối dòng đầu tư và tiêu dùng theo hướng khuyến khích tuần hoàn. Cơ hội xây dựng một nền kinh tế ít phát thải, sử dụng tài nguyên hiệu quả và cân bằng giữa tăng trưởng và công bằng xã hội đang ngày càng rõ nét, trong đó kinh tế tuần hoàn là điểm tựa chiến lược quan trọng.
Thách thức trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam đến từ yếu tố kỹ thuật hay tài chính và bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa và thói quen đã định hình lâu dài. Nhiều doanh nghiệp duy trì cách tiếp cận ngắn hạn, trong đó lợi nhuận tức thời chiếm ưu thế so với lợi ích dài hạn của đổi mới công nghệ, tái cấu trúc chuỗi cung ứng hoặc phát triển sản phẩm bền vững. Thay đổi nhận thức trong môi trường kinh doanh cần thời gian, cần có những hình mẫu thành công rõ ràng, cần xây dựng lại chuẩn mực về hiệu quả tính bằng lợi nhuận và tính bằng năng suất tài nguyên, chỉ số tái sử dụng và khả năng thích ứng. Ở phía người dân, thói quen tiêu dùng dễ dãi, tâm lý sính ngoại và lối sống tiêu thụ nhanh khiến khái niệm vòng đời sản phẩm bị rút ngắn một cách phi lý. Sự lãng phí không nằm ở chỗ vật chất bị loại bỏ, mà nằm ở chỗ tiềm năng giá trị bị xem nhẹ hoặc hoàn toàn không được khai thác.
Năng lực công nghệ của nền kinh tế nội địa chưa theo kịp các yêu cầu của mô hình tuần hoàn. Hầu hết công nghệ tái chế hiện tại ở Việt Nam đang hoạt động theo kiểu nhỏ lẻ, công suất thấp và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường. Các cơ sở xử lý chất thải còn phụ thuộc vào lao động thủ công, thiếu khả năng phân loại tinh và không đủ năng lực để xử lý các loại vật liệu phức tạp, chẳng hạn như hợp chất đa lớp trong bao bì, rác thải điện tử hoặc pin năng lượng cao. Nhập khẩu công nghệ tiên tiến gặp rào cản về chi phí, bản quyền và trình độ vận hành. Sự thiếu vắng các khu công nghiệp chuyên biệt phục vụ tuần hoàn khiến doanh nghiệp khó tích hợp hạ tầng tái chế vào dây chuyền sản xuất. Bản thân hệ thống thu gom và phân loại rác tại đô thị và nông thôn chưa tạo ra dòng nguyên liệu đầu vào ổn định và có chất lượng cao cho công nghiệp tái chế. Những điểm nghẽn kéo theo hậu quả là tỷ lệ chất thải được tái sử dụng thực chất vẫn rất thấp, dù tiềm năng là không nhỏ.
Môi trường chính sách chưa thực sự tạo thành bộ khung vững chắc để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn phát triển theo hướng bền vững. Dù các chiến lược quốc gia và các văn bản định hướng đã được ban hành, tính cụ thể hóa vẫn còn hạn chế. Doanh nghiệp vẫn thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng để triển khai mô hình vòng đời sản phẩm mở rộng, không có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm trong giai đoạn sau tiêu dùng, không có chỉ tiêu bắt buộc về hàm lượng tái chế trong sản phẩm mới. Trong khi đó, các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế, hỗ trợ tiếp cận tín dụng xanh, hoặc ưu tiên đất đai cho dự án tuần hoàn chưa được triển khai thống nhất và rộng khắp. Sự thiếu đồng bộ giữa các cấp chính quyền và giữa các ngành quản lý làm giảm hiệu quả phối hợp và kéo dài thời gian thực thi các chương trình liên ngành, ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tham gia của khu vực tư nhân.
Nguồn vốn là một thách thức căn cơ trong quá trình chuyển đổi. Các mô hình kinh tế tuần hoàn thường cần đầu tư ban đầu lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài và mức độ rủi ro chưa thể lường trước rõ ràng. Các ngân hàng thương mại thường không mặn mà với những khoản vay thiếu tài sản đảm bảo, không có tiền lệ hoạt động hoặc chưa chứng minh được khả năng sinh lời. Trong khi đó, các quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh hoặc nguồn vốn quốc tế yêu cầu năng lực lập dự án cao, tiêu chuẩn báo cáo minh bạch và hệ thống giám sát đánh giá chặt chẽ, vượt quá khả năng của phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài tài chính, nhân lực là một giới hạn lớn khác. Các ngành nghề trong kinh tế tuần hoàn đòi hỏi kỹ năng mới, từ kỹ thuật tái chế, công nghệ phân tích vòng đời sản phẩm, đến phân tích dữ liệu vật liệu và thiết kế chuỗi cung ứng khép kín. Hệ thống đào tạo hiện tại chưa tích hợp các nội dung vào chương trình giảng dạy đại học, cao đẳng hoặc đào tạo nghề, khiến nguồn nhân lực vừa thiếu vừa yếu.
Tính liên kết giữa các tác nhân trong nền kinh tế vẫn còn rời rạc. Nhiều doanh nghiệp tự triển khai mô hình tuần hoàn mà không có dữ liệu từ các nhà cung cấp nguyên liệu hoặc thông tin phản hồi từ người tiêu dùng. Mỗi mắt xích trong chuỗi giá trị vẫn hoạt động độc lập, thiếu trao đổi dữ liệu và thiếu cơ chế chia sẻ chi phí hoặc lợi ích phát sinh từ quá trình tuần hoàn. Các chính quyền địa phương chưa xây dựng được hệ sinh thái tuần hoàn cấp vùng, chưa phát huy vai trò trung gian của hiệp hội ngành nghề, chưa kết nối được các doanh nghiệp lớn với các đơn vị khởi nghiệp sáng tạo. Thiếu nền tảng số để quản lý vòng đời sản phẩm, theo dõi dòng vật liệu và lượng phát thải khiến công tác điều phối thiếu hiệu quả. Nếu không thiết lập được cơ chế hợp tác rõ ràng, quá trình chuyển đổi có nguy cơ bị manh mún, thiếu sức lan tỏa và dễ vấp phải phản ứng tiêu cực từ các nhóm lợi ích ngắn hạn.
Giải pháp thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam cần bắt đầu bằng cải tổ hệ thống chính sách và pháp luật theo hướng đồng bộ, minh bạch. Các quy định mâu thuẫn cần được loại bỏ, nội dung cụ thể cho từng ngành cần được bổ sung. Chuẩn mực kỹ thuật về thiết kế, nguyên liệu và khả năng tái chế phải được xác lập rõ ràng. Cơ chế giám sát chất lượng cần gắn liền với trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Tính thống nhất giữa trung ương và địa phương giữ vai trò quan trọng trong triển khai hiệu quả và tránh lãng phí nguồn lực.
Một là, cải tổ chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, minh bạch. Cách tiếp cận chính sách hiện hành cần được tái cấu trúc nhằm loại bỏ các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, đồng thời bổ sung nội dung cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực. Các chuẩn mực kỹ thuật cần được xác lập thống nhất như yêu cầu về thiết kế dễ tháo rời, sản phẩm có khả năng sửa chữa, sử dụng nguyên liệu tái chế và thân thiện với môi trường. Cơ chế kiểm tra, giám sát chất lượng phải đi đôi với thực thi trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) để tạo áp lực thay đổi hành vi doanh nghiệp. Tính nhất quán giữa trung ương và địa phương trong triển khai chính sách là yêu cầu cấp thiết nhằm tránh lãng phí nguồn lực và tạo dựng niềm tin thị trường.
Hai là, thúc đẩy đổi mới công nghệ và xây dựng nền tảng dữ liệu vật liệu quốc gia. Đổi mới công nghệ đóng vai trò cốt lõi trong tái cấu trúc vòng đời sản phẩm. Cần ưu tiên tài trợ công nghệ cao cho các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp sản xuất. Các chính sách thuế ưu đãi, hỗ trợ tiếp cận quỹ nghiên cứu, cơ chế liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo phải được vận hành theo hướng khuyến khích thực nghiệm, thương mại hóa và chuyển giao. Một hệ thống cơ sở dữ liệu mở, tương thích và có khả năng chia sẻ về dòng nguyên vật liệu, nguồn thải và thị trường nguyên liệu thứ cấp là điều kiện để kết nối mạng lưới cộng sinh công nghiệp. Mỗi ngành nên có bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả tuần hoàn, làm cơ sở để điều chỉnh chính sách và phân bổ nguồn lực phù hợp.
Ba là, tái thiết hạ tầng kỹ thuật phục vụ toàn bộ chu trình tuần hoàn. Cần đầu tư đồng bộ cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật, từ khu công nghiệp đến hộ gia đình. Các khu công nghiệp nên chuyển đổi thành mô hình sinh thái, nơi phụ phẩm và chất thải được xử lý tại chỗ hoặc chia sẻ tài nguyên với doanh nghiệp lân cận. Hệ thống thu gom rác thải cần được tổ chức lại theo hướng phân loại tại nguồn, sử dụng phương tiện chuyên biệt và áp dụng công nghệ xử lý hiện đại. Đầu tư vào trung tâm logistics ngược có quy mô vùng giúp quản lý hiệu quả các sản phẩm đã qua sử dụng, linh kiện có thể phục hồi và tái phân phối. Quy hoạch hạ tầng cần gắn với dữ liệu và khả năng mở rộng để đảm bảo hiệu quả đầu tư lâu dài.
Bốn là, huy động hiệu quả nguồn lực xã hội thông qua hợp tác công tư và cải cách hành chính. Nguồn lực từ khu vực tư nhân đóng vai trò bổ sung quan trọng trong bối cảnh ngân sách công hạn chế. Thiết lập các mô hình hợp tác công tư cần dựa trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro hợp lý, bảo đảm tính dài hạn và khả năng sinh lợi bền vững. Có thể triển khai liên doanh tái chế, trung tâm sáng tạo xanh hoặc quỹ tài chính xanh bảo lãnh bởi nhà nước. Thủ tục hành chính cần cải tiến theo hướng điện tử hóa, giảm chi phí tuân thủ và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính sách ưu đãi nên hướng tới những doanh nghiệp có cam kết chuyển đổi công nghệ, kiểm soát nguồn thải và thực hiện tái chế hiệu quả.
Năm là, thay đổi hành vi tiêu dùng và xây dựng văn hóa đời sống tuần hoàn trong xã hội. Mỗi người dân có vai trò thiết yếu trong vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn. Truyền thông cần chuyển tải thông điệp ngắn gọn, dễ hiểu, nhấn mạnh lợi ích trực tiếp từ hành vi tiêu dùng có ý thức. Trường học cần tích hợp kiến thức môi trường và tuần hoàn vào chương trình học để xây dựng thói quen từ sớm. Các cộng đồng dân cư có thể trở thành đầu mối thu gom rác phân loại, vận hành chợ tái sử dụng, hoặc tổ chức các nhóm sáng tạo tái chế tại chỗ. Nhân rộng mô hình tốt và ghi nhận đóng góp xã hội sẽ thúc đẩy sự lan tỏa của lối sống xanh, từng bước chuyển đổi hành vi tiêu dùng đại chúng theo hướng bền vững.
Sáu là, phát triển thị trường tài chính xanh và công cụ kinh tế hỗ trợ tuần hoàn. Tài chính xanh cần trở thành dòng vốn chiến lược cho các hoạt động sản xuất và đầu tư tuần hoàn. Thị trường tín chỉ carbon là công cụ điều tiết tiềm năng nếu được thiết kế rõ ràng và khả thi về giám sát. Cần xây dựng hệ thống đo lường, báo cáo và xác minh lượng phát thải tránh được, để đảm bảo doanh nghiệp có thể tham gia và thu được lợi ích kinh tế tương xứng. Ngoài tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, tín dụng ưu đãi và quỹ hỗ trợ chuyển đổi cần được vận hành theo hướng linh hoạt, phù hợp với đặc điểm từng ngành. Các ngân hàng thương mại nên có hướng dẫn chi tiết về phân loại dự án xanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng và đúng mục tiêu.
Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi mô hình và tiếp cận nguồn lực. Chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn cần sự kết nối sâu rộng với thế giới. Việt Nam nên chủ động thiết lập các chương trình trao đổi chuyên gia, hỗ trợ kỹ thuật và đồng tài trợ với các tổ chức quốc tế. Kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước là cơ sở để rút ngắn thời gian thử nghiệm và điều chỉnh mô hình phù hợp. Tham gia vào các mạng lưới kinh tế tuần hoàn toàn cầu giúp doanh nghiệp nội địa tiếp cận công nghệ, tiêu chuẩn sản xuất và chuỗi giá trị quốc tế. Hiện diện trong các thỏa thuận thương mại có điều khoản môi trường nghiêm ngặt sẽ tạo động lực để tái cấu trúc toàn bộ chuỗi cung ứng theo hướng xanh và tuần hoàn.
Tám là, thiết lập hệ thống đánh giá hiệu quả và cơ chế điều phối tập trung. Để đảm bảo triển khai kinh tế tuần hoàn một cách hiệu quả, cần có một hệ thống giám sát chặt chẽ, linh hoạt và minh bạch. Xây dựng bộ chỉ số đánh giá tuần hoàn theo từng lĩnh vực, từng địa phương sẽ giúp xác định chính xác điểm nghẽn, từ đó đưa ra chính sách điều chỉnh kịp thời. Một cơ quan điều phối tập trung cần được giao quyền hạn rõ ràng để điều phối liên ngành, tránh xung đột lợi ích và bảo đảm đồng bộ trong quá trình triển khai. Mỗi chương trình hành động địa phương nên có mục tiêu định lượng, thời gian thực hiện cụ thể và cơ chế kiểm tra định kỳ, bảo đảm tiến độ và chất lượng thực thi trên toàn quốc.
Tài liệu tham khảo:
Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2025 về một số nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường.
Ellen MacArthur Foundation (2021). The Universal Circular Economy Policy Goals: Enabling the transition to scale, Ellen MacArthur Foundation.
Luật Bảo vệ môi trường ngày 17 tháng 11 năm 2020.
Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Quyết định 222/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2025 về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035
Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ: Quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh.
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng
Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường