Lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần theo mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

01/08/2025

TN&MTLộ trình loại bỏ sản phẩm nhựa sử dụng một lần tại Việt Nam được khởi động từ Luật Bảo vệ môi trường 2020 và cụ thể hóa tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP. Chỉ thị 20/CT-TTg (12/7/2025) yêu cầu triển khai quyết liệt các giải pháp ngăn chặn ô nhiễm môi trường, trong đó có thí điểm không sử dụng đồ nhựa dùng một lần trong các nhà hàng, khách sạn, quán ăn tại khu vực Vành đai 1 Hà Nội từ Quý IV/2025.

Nghị quyết được HĐND TP Hà Nội thông qua ngày 10/7/2025 đặt ra lộ trình chi tiết: từ 2026 cấm sử dụng đồ nhựa dùng một lần tại khách sạn, khu du lịch; từ 2027 cấm phát túi ni lông miễn phí tại chợ, cửa hàng tiện lợi; từ 2028 dừng hoàn toàn đồ nhựa dùng một lần; đến 2030 yêu cầu bao bì sử dụng tối thiểu 30% nhựa tái chế; từ 2031 cấm sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa dùng một lần, hàng chứa vi nhựa trừ sản phẩm xuất khẩu hoặc có nhãn sinh thái. Giai đoạn chuyển tiếp từ 2026-2030 áp dụng cơ chế trách nhiệm mở rộng (EPR), buộc doanh nghiệp tính chi phí xử lý chất thải vào giá thành. Lộ trình mang tính ép buộc mềm, tạo dư địa chuyển đổi trong giai đoạn đầu, siết chặt tài chính ở giữa và kết thúc bằng cấm tuyệt đối. Chính quyền trung ương và địa phương cùng triển khai, tạo nền tảng chính sách môi trường bền vững, thúc đẩy đổi mới công nghệ và tiêu dùng xanh.

Roadmap to Restrict the Production and Import of Single-Use Plastic Products under the Circular Economy Model in Vietnam
The roadmap to phase out single-use plastic products in Vietnam was initiated by the 2020 Law on Environmental Protection and concretized in Decree 08/2022/ND-CP. Directive 20/CT-TTg (dated July 12, 2025) mandates drastic implementation of measures to prevent environmental pollution, including a pilot ban on single-use plastic items in restaurants, hotels, and eateries within Hanoi's Ring Road 1 area starting from Q4/2025. A resolution passed by the Hanoi People's Council on July 10, 2025, sets a detailed timeline: from 2026, single-use plastics will be banned in hotels and tourist areas; from 2027, free plastic bags will be prohibited at markets and convenience stores; from 2028, all single-use plastics will be fully phased out; by 2030, packaging must contain at least 30% recycled plastic; from 2031, the production and import of single-use plastic products and microplastic-containing goods will be banned, except for exports or those with eco-labels. The transition period (2026-2030) includes the application of Extended Producer Responsibility (EPR), requiring businesses to incorporate waste treatment costs into product prices. The roadmap adopts a soft mandatory approach, allowing room for transition in the early phase, tightening financial requirements in the middle phase, and ending with an absolute ban. Both central and local governments are jointly implementing the plan, establishing a sustainable environmental policy foundation while promoting technological innovation and green consumption.

 

Luật bảo vệ môi trường năm 2020 yêu cầu hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần ở Việt Nam
Luật Bảo vệ Môi trường 2020 là văn bản pháp lý và là nền móng hình thành hệ sinh thái quản lý chất thải hiện đại. Vai trò của nhà sản xuất được đưa về đúng vị trí trung tâm. Chính sách không chờ đến khi chất thải xuất hiện trong dòng thải, can thiệp từ trước khâu sản xuất, thiết kế, đóng gói. Đây là bước tiến lớn trong tư duy quản trị chất thải, chuyển từ xử lý rác thải sang kiểm soát nguồn sinh chất thải. Lộ trình hạn chế sản phẩm nhựa sử dụng một lần tại Việt Nam là một sự dịch chuyển sâu rộng trong định hướng chính sách môi trường. Nhà nước không đứng ở vị trí khuyến nghị mà đã chuyển sang tư thế điều tiết cứng rắn. Cách tiếp cận theo từng giai đoạn cho thấy một sự tính toán lâu dài, có chiến lược và phân tầng trách nhiệm rõ ràng. 
Điều 64, Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định không sản xuất và nhập khẩu túi ni lông khó phân hủy sinh học có kích thước nhỏ hơn 50 cm x 50 cm và độ dày một lớp màng nhỏ hơn 50 µm, trừ trường hợp sản xuất để xuất khẩu hoặc sản xuất, nhập khẩu để đóng gói sản phẩm, hàng hóa bán ra thị trường, đóng vai trò then chốt trong lộ trình, thiết lập hệ thống các mốc thời gian cùng cơ chế giám sát thực hiện cụ thể. Nhà sản xuất và nhập khẩu túi ni lông bắt buộc phải sắp xếp lại quy trình sản xuất, nghiên cứu thay thế nguyên liệu, đầu tư dây chuyền mới. Các doanh nghiệp không thể trì hoãn sự chuyển đổi bằng cách chờ đợi hỗ trợ mà buộc phải chủ động, nếu không muốn bị loại khỏi thị trường. Với các địa phương, mốc thời gian đặt ra yêu cầu cần ban hành sớm các quy định điều chỉnh hành vi tiêu dùng để tạo đủ thời gian chuẩn bị, truyền thông và tổ chức thực thi.

Lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần theo mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

Rác thải nhựa đe dọa nghiêm trọng đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe con người

Các bước đi của Hà Nội phục vụ lợi ích nội tại của thành phố và có giá trị làm hình mẫu cho những địa phương khác. Thí điểm trong khu vực Vành đai 1 thể hiện một cách tiếp cận có kiểm soát, cho phép phát hiện vấn đề và điều chỉnh chính sách kịp thời trước khi mở rộng quy mô. Từ những khu phố trung tâm, nơi có hạ tầng quản lý tốt hơn, lực lượng giám sát đông đảo hơn, chính quyền có thể đánh giá mức độ khả thi, mức độ chấp nhận của người dân, hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ. Mô hình thành công sẽ là bằng chứng sống động, củng cố niềm tin vào khả năng triển khai chính sách môi trường cấp bách ngay giữa một đô thị đông đúc.
Giai đoạn chuyển tiếp từ 2026 đến 2030 là giai đoạn bản lề, đòi hỏi sự điều chỉnh cả về luật pháp, hành chính và thị trường. Các yêu cầu như không được phát túi ni lông miễn phí, áp dụng tỷ lệ tối thiểu nhựa tái chế không còn là lời kêu gọi tự nguyện mà đã mang tính cưỡng chế, bắt buộc. Các doanh nghiệp bắt buộc phải cân nhắc lại toàn bộ chuỗi cung ứng của mình. Nhà sản xuất bao bì phải tìm nguyên liệu mới. Doanh nghiệp bán lẻ phải thay đổi chính sách bán hàng. Người tiêu dùng đối mặt với trả thêm chi phí. Thay đổi có thể gây chấn động trong ngắn hạn như cấm pháo, yêu cầu bắt buộc đội mũ bảo hiểm, nhưng giúp hình thành thói quen tiêu dùng bền vững về lâu dài. Nếu được tổ chức và truyền thông thông minh, quá trình chuyển đổi có thể diễn ra trong trạng thái chấp nhận và thích nghi thay vì phản kháng.
Áp dụng cơ chế EPR là một biện pháp tài chính khôn ngoan. Khi các doanh nghiệp phải đóng góp tài chính để xử lý rác thải của chính mình, họ buộc phải tính toán chi phí môi trường vào trong cấu trúc giá sản phẩm. Giá của một chiếc ly nhựa hay một gói bim bim sẽ phản ánh chi phí sản xuất và bao gồm cả chi phí xử lý chất thải sau sử dụng, tạo ra một áp lực kinh tế khiến sản phẩm thân thiện với môi trường trở nên cạnh tranh hơn. EPR cũng tạo nguồn lực tài chính ổn định để đầu tư vào công nghệ tái chế, xây dựng nhà máy phân loại, mở rộng hệ thống thu gom rác. Quỹ Bảo vệ Môi trường không còn phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước mà được nuôi dưỡng từ chính dòng tiền phát sinh trong nền kinh tế tiêu dùng.
Cấm hoàn toàn sản phẩm nhựa sử dụng một lần sau ngày 31/12/2030 đánh dấu một chuyển đổi mang tính lịch sử. Không còn chỗ cho các sản phẩm nhựa giá rẻ, tiện dụng nhưng độc hại. Những mặt hàng từng gắn liền với cuộc sống hàng ngày sẽ biến mất khỏi thị trường nội địa, trừ khi chúng được tái định hình để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Những doanh nghiệp còn nuôi hy vọng kéo dài thời gian chuyển tiếp sẽ phải chấp nhận thực tế rằng đây là điểm không thể quay lại. Thị trường buộc phải tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới. Ai không chuyển đổi sẽ bị đào thải.
Lộ trình loại bỏ đồ nhựa dùng một lần mang ý nghĩa tích cực về mặt môi trường và mở ra không gian đổi mới cho toàn bộ chuỗi giá trị liên quan đến tiêu dùng và sản xuất. Từ nhà sản xuất nguyên liệu đến doanh nghiệp đóng gói, từ chuỗi bán lẻ đến người tiêu dùng, tất cả đều bị cuốn vào vòng quay của chuyển đổi xanh, chuyển đổi số để truy suất nguồn gốc, chuyển đổi tuần hoàn để tăng hiệu quả sử dụng nhựa, kéo dài vòng đời của nhựa, giảm rác thải nhựa và không gây tác động xấu tới đại dương, tới con người, sinh vật và tự nhiên. Những doanh nghiệp có khả năng thích ứng nhanh sẽ chiếm lĩnh thị phần. Những mô hình sáng tạo, như cho thuê hộp đựng, tái sử dụng ly, bao bì phân hủy sinh học tự ủ tại nhà, sẽ có cơ hội bùng nổ. Trong môi trường chính sách rõ ràng, thị trường sẽ không còn là nơi ưu tiên cho lựa chọn rẻ nhất, mà sẽ là nơi cạnh tranh bằng giải pháp thông minh, bền vững và có trách nhiệm.
Giải pháp thực hiện lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần
Lộ trình hạn chế và tiến tới loại bỏ sản phẩm nhựa sử dụng một lần ở Việt Nam thể hiện quyết tâm chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, sạch và có kiểm soát. Quyết tâm không thể tách rời quá trình tích lũy các bước đi pháp lý, hành chính và truyền thông đã diễn ra liên tục trong gần một thập niên. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đóng vai trò nền tảng, mở đường cho các văn bản dưới luật đi sâu vào từng chi tiết cụ thể. Nghị định 08/2022/NĐ-CP là công cụ triển khai chính sách, vừa mang tính ràng buộc, vừa thể hiện một bản thiết kế chính sách mang tầm chiến lược, trong đó Điều 64 là điểm nút thể hiện rõ ràng lộ trình hành động hướng đến chấm dứt toàn diện sản phẩm nhựa dùng một lần.
Thời điểm đến năm 2025 được coi là khoảng thời gian chuẩn bị. Các địa phương có trách nhiệm ban hành các quy định cụ thể nhằm ngăn chặn sử dụng và lưu hành các sản phẩm nhựa dùng một lần tại các địa điểm có mật độ tiêu dùng cao. Trách nhiệm không dừng ở văn bản hành chính mà kéo theo yêu cầu tổ chức thực thi, thanh tra, kiểm tra tại các siêu thị, khách sạn, khu du lịch, trung tâm thương mại. Các hành vi tiêu dùng phải được điều chỉnh bằng biện pháp hành chính có hiệu lực, không trông đợi vào lời kêu gọi tự nguyện. Sự can thiệp trực tiếp vào điểm bán, điểm lưu thông hàng hóa tạo áp lực ngược lên nhà sản xuất, buộc họ thay đổi thiết kế bao bì hoặc thay đổi phân khúc thị trường.
Thành phố Hà Nội trở thành điểm tiên phong, với chương trình thí điểm áp dụng trên địa bàn trung tâm. Trong khu vực Vành đai 1, từ cuối năm 2025, các quán ăn, nhà hàng, khách sạn phải loại bỏ hoàn toàn đồ nhựa dùng một lần, đóng vai trò kiểm nghiệm mô hình điều hành chính sách. Sự thay đổi diễn ra trong môi trường đô thị đông đúc sẽ là bài kiểm tra về mức độ tuân thủ của doanh nghiệp, khả năng thích nghi của người tiêu dùng và hiệu quả của truyền thông công cộng. Hà Nội không hành động đơn lẻ mà đang thực hiện một phần nhiệm vụ được giao trong lộ trình quốc gia. Bắt đầu từ ngày 01/01/2026, sản xuất và nhập khẩu túi ni lông khó phân hủy sinh học bị giới hạn chặt chẽ. Chỉ những loại có kích thước trên 50 cm x 50 cm và lớp màng dày từ 50 µm trở lên mới được tiếp tục sản xuất, nhập khẩu. Lựa chọn không phải là ngẫu nhiên, được thiết kế để loại bỏ những sản phẩm mỏng, nhẹ, tiện lợi nhưng gây ô nhiễm cao. Những chiếc túi mỏng rất khó thu gom, rất dễ phát tán ra môi trường, gần như không thể tái chế. Chính sách đi thẳng vào phân khúc sản phẩm gây hại nhất, tập trung đúng đối tượng gây tác động lớn. Những doanh nghiệp đang sản xuất túi ni lông mỏng phải chuyển đổi dây chuyền hoặc chấp nhận rút lui khỏi thị trường nội địa. Quy định kỹ thuật về kích thước và độ dày được đưa vào như một công cụ pháp lý mạnh, giúp phân loại ngay từ đầu quá trình sản xuất.
Từ sau thời điểm 2026, các cá nhân, tổ chức sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa dùng một lần phải thực hiện trách nhiệm tái chế, xử lý. Hệ thống trách nhiệm không dựa vào ý thức tự nguyện mà trở thành nghĩa vụ bắt buộc, gắn với các quy định tài chính cụ thể. Tái chế không thể được phó mặc cho nhà nước mà phải là phần chi phí mà doanh nghiệp phải chịu. Các đơn vị sản xuất phải lựa chọn hoặc tự xây dựng cơ sở xử lý, hoặc đóng góp kinh phí vào các cơ chế chung như Quỹ Bảo vệ Môi trường. Cơ chế tài chính làm thay đổi toàn bộ cấu trúc giá thành của sản phẩm, khiến các phương án thân thiện với môi trường trở nên hấp dẫn hơn về mặt kinh tế.
Từ năm 2026 đến năm 2030, lộ trình đi vào giai đoạn siết chặt. Không còn dừng ở túi ni lông, chính sách hướng đến toàn bộ dòng sản phẩm nhựa sử dụng một lần và các loại bao bì khó phân hủy sinh học. Các bước giảm dần sản xuất và nhập khẩu không diễn ra theo hình thức đột ngột, mà được hoạch định theo chuỗi thời gian rõ ràng, với mục tiêu kiểm soát từng bước, là thời điểm thử thách năng lực thích ứng của doanh nghiệp. Những đơn vị có khả năng sáng tạo và chủ động sẽ vượt qua, trong khi những đơn vị trì hoãn hoặc chậm đổi mới sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường. Áp dụng quy định theo từng giai đoạn cũng giúp hệ thống thu gom, xử lý chất thải nhựa có thời gian nâng cấp.
Sau ngày 31/12/2030, lệnh cấm toàn diện có hiệu lực. Các sản phẩm nhựa dùng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học, hàng hóa chứa vi nhựa không còn được phép sản xuất hay nhập khẩu. Những ngoại lệ duy nhất là sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm có nhãn sinh thái, bao bì dùng để đóng gói sản phẩm bán ra thị trường. Mục tiêu không hướng đến loại bỏ bao bì công nghiệp mà tập trung vào các vật dụng tiêu dùng hàng ngày có vòng đời ngắn, gây ô nhiễm cao. Lệnh cấm tạo ra ranh giới pháp lý rõ ràng, không để lại khoảng trống hay kẽ hở. Doanh nghiệp chỉ còn hai con đường: chuyển đổi hoặc dừng hoạt động trong lĩnh vực đó.
Lộ trình không dừng ở cấp độ trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải ban hành quy định cụ thể và tổ chức triển khai trên địa bàn. Các cơ quan địa phương là người thực thi và là đơn vị chủ động xây dựng mô hình quản lý phù hợp với đặc điểm kinh tế, dân cư, địa hình. Hoạt động quản lý chất thải nhựa phải bao gồm thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, đồng thời phải hỗ trợ chuyển đổi cho doanh nghiệp và người dân. Nếu không có sự chủ động của cấp địa phương, chính sách sẽ không đi vào thực tế. Phân cấp rõ ràng cũng là cách tăng tốc độ triển khai và tạo ra sự đa dạng trong cách tiếp cận, giúp hệ thống chính sách trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn.
Giai đoạn từ năm 2026 đến 2030 được thiết kế như giai đoạn chuyển tiếp có kiểm soát. Can thiệp của nhà nước trở nên mạnh mẽ hơn, tập trung vào khâu sản xuất và nhập khẩu. Các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần và bao bì nhựa khó phân hủy sinh học bị buộc phải thực hiện trách nhiệm mở rộng (EPR). Mọi hoạt động sản xuất không còn đơn thuần là quá trình kinh doanh mà phải tính đến vòng đời của sản phẩm. Khi sản phẩm trở thành chất thải, nghĩa vụ xử lý không thể tiếp tục đổ lên vai các cơ quan công ích. Doanh nghiệp bị yêu cầu đóng góp kinh phí vào Quỹ Bảo vệ Môi trường để phục vụ cho hoạt động tái chế. Trách nhiệm tài chính không mang tính hình thức, mà tác động trực tiếp đến mô hình kinh doanh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán lại chi phí, định giá và cả thiết kế bao bì. Không tuân thủ EPR, doanh nghiệp sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng do không đáp ứng yêu cầu pháp lý mới.
Các địa phương đóng vai trò cụ thể hóa chủ trương trung ương bằng kế hoạch chi tiết. Hà Nội đặt ra mốc thời gian rõ ràng với từng bước siết chặt hành vi tiêu dùng và phân phối. Từ năm 2027, túi ni lông không được cung cấp miễn phí tại chợ và cửa hàng tiện lợi. Biện pháp cắt đứt nguồn phát tán loại túi có nguy cơ cao, đồng thời tạo áp lực lên người tiêu dùng trong thay đổi hành vi. Đến năm 2028, các địa điểm không còn được lưu hành đồ nhựa dùng một lần. Quy định ngăn chặn tiêu dùng sản phẩm nhựa sử dụng một lần và ép doanh nghiệp chuyển sang phương án bền vững hơn. Từ năm 2030, doanh nghiệp bắt buộc phải sử dụng tỷ lệ nhựa tái chế tối thiểu 30% trong thiết kế bao bì. Mục tiêu là giảm rác và tạo ra thị trường đầu ra ổn định cho vật liệu tái chế, đảm bảo tính kinh tế cho ngành tái chế nội địa. Chính sách nhắm đến sự tái cấu trúc chuỗi giá trị, không còn giới hạn trong cấm đoán mà chuyển sang kiến tạo thị trường mới.
Giai đoạn sau năm 2030 đánh dấu chấm hết cho quá trình sản xuất và nhập khẩu những dòng sản phẩm có nguy cơ gây ô nhiễm cao nhất. Từ ngày 01/01/2031, các loại sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học, hàng hóa chứa vi nhựa sẽ bị dừng hoàn toàn trên phạm vi cả nước. Lệnh dừng không áp dụng đại trà mà có những giới hạn cụ thể. Các sản phẩm có chứng nhận Nhãn sinh thái Việt Nam vẫn được tiếp tục lưu thông. Mục tiêu là tạo khoảng trống pháp lý để thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sạch và thiết kế bao bì xanh. Sản phẩm phục vụ xuất khẩu không bị giới hạn vì không tiêu thụ trong nước. Một số loại bao bì khó phân hủy vẫn được phép sử dụng nếu dùng cho đóng gói sản phẩm tiêu dùng như mì ăn liền, bánh kẹo. Ranh giới được đặt ra giữa bao bì chứa đựng và vật dụng tiêu dùng một lần. Cách tiếp cận chọn lọc giúp chính sách không gây gián đoạn đột ngột cho ngành công nghiệp thực phẩm, đồng thời vẫn đạt mục tiêu giảm phát thải rác nhựa khó kiểm soát.
Chiến lược quốc gia được triển khai không dựa trên một mệnh lệnh hành chính duy nhất. Mô hình triển khai thể hiện cấu trúc tầng bậc rõ ràng, từ trung ương đến địa phương. Trọng tâm không nằm ở tuyên truyền mà chuyển hẳn sang hệ thống quy định có thể cưỡng chế. Hệ thống chia đều trách nhiệm cho cả ba nhóm chính: nhà sản xuất, nhà phân phối và người tiêu dùng. Chính sách áp đặt giới hạn kỹ thuật, nghĩa vụ tài chính và thời hạn cụ thể cho từng loại hành vi. Quy trình điều chỉnh được đặt trên nền tảng kinh tế tuần hoàn. Mỗi giai đoạn trong lộ trình đều có chỉ số rõ ràng, có đầu mối quản lý, có chế tài xử lý nếu không tuân thủ. Mỗi địa phương có thể tiến hành nhanh hơn nhưng không được đi chậm hơn quy định tối thiểu của trung ương. Phân cấp không làm loãng trách nhiệm mà tạo ra cạnh tranh về chất lượng điều hành chính sách môi trường giữa các tỉnh thành.
Lộ trình được thiết kế theo mô hình ép buộc mềm. Giai đoạn đầu tạo dư địa chuyển đổi bằng cơ chế khuyến khích. Giai đoạn giữa áp đặt trách nhiệm tài chính để thay đổi cấu trúc chi phí của doanh nghiệp. Giai đoạn cuối đặt ra mốc kết thúc rõ ràng, không để lại vùng xám. Toàn bộ quy trình buộc các bên liên quan phải tự thích nghi và điều chỉnh, không chờ đợi sự hỗ trợ từ bên ngoài. Quy định kỹ thuật đóng vai trò như hàng rào loại bỏ sản phẩm gây hại ngay từ khâu sản xuất. Trách nhiệm mở rộng buộc doanh nghiệp gắn kết lợi nhuận với nghĩa vụ môi trường. Hạn chót cứng khiến mọi kế hoạch kinh doanh phải tái cấu trúc. Đây là mô hình chính sách có tính tích hợp, không dựa vào hình thức tuyên truyền mà sử dụng toàn bộ công cụ hành chính, tài chính và kỹ thuật để đạt mục tiêu môi trường lâu dài.

Tài liệu tham khảo:
Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2025 về một số nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường ngày 17 tháng 11 năm 2020.
Nghị định 05/2025/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường
Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ: Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường
Nghị quyết quy định biện pháp giảm phát thải nhựa trên địa bàn thành phố Hà Nội (thực hiện điểm d khoản 2 Điều 28 Luật Thủ đô) của HĐND thành phố Hà Nội khóa XVI thông qua ngày 10/7, tại kỳ họp thứ 25
Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng
Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chỉ đạo khắc phục lũ quét, sạt lở đất ở Điện Biên

Triển lãm tôn vinh thành tựu to lớn của ngành nông nghiệp và môi trường

Tập huấn toàn quốc về phân cấp, phân quyền đất đai, hướng tới mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Bảo vệ môi trường tương ứng với tăng trưởng kinh tế cao

Nông nghiệp

Quảng Trị: Chi trả tín chỉ carbon đạt trên 90%

Quyết liệt triển khai các biện pháp khống chế dịch tả lợn Châu Phi

Chuyển đổi số “chìa khóa vàng” đưa sản phẩm OCOP Việt Nam vươn ra thế giới

Sắp có mô hình chăn nuôi lợn trong nhà nhiều tầng tại Việt Nam

Tài nguyên

Bài 1: Chủ động điều tiết - Ứng phó khô hạn: Cục Quản lý tài nguyên nước đi đầu bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia

Tối ưu hóa nguồn lực đất đai - Động lực phát triển bền vững cho tỉnh Bắc Ninh mới 

Tập trung nguồn lực, nâng cao hiệu quả thực hiện Đề án khoáng sản chiến lược

Rà soát, chuẩn hoá lại các thủ tục hành chính về đất đai

Môi trường

Giám sát chuyên đề việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường: Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan khảo sát các mô hình xử lý rác thải, nước thải tiêu biểu tại Hà Nội

Kiểm lâm Yên Thế: Đẩy mạnh giám sát sử dụng và phát triển rừng

Kiểm lâm Bắc Ninh: Dấu ấn 6 tháng đầu năm

Giải pháp xây dựng lộ trình cho khu vực phát thải thấp ở Việt Nam

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Tưới thông minh - Giải pháp xanh cho vùng hạn mặn Vĩnh Long

Tổng hợp hợp chất xua muỗi p-menthan-3,8-diol từ tinh dầu bạch đàn chanh (eucalyptus citriodora)

Nghiên cứu và phát triển hệ thống IoT cảnh báo cháy sớm dựa trên phân tích nhiệt độ và hình ảnh

Nghiên cứu xác định khu vực phù hợp trồng rong nho (caulerpa lentillifera) ở Việt Nam

Chính sách

Tăng cường vai trò cấp xã trong quản lý tài nguyên nước

Ra mắt Sổ tay điện tử hướng dẫn trình tự, thủ tục hành chính lĩnh vực đất đai

Thống nhất mở rộng toàn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông theo phương thức PPP

UBND TP Hồ Chí Minh là cơ quan chủ quản thực hiện Dự án cầu Hiếu Liêm 2

Phát triển

Kinh tế tuần hoàn - Xu hướng tất yếu và cơ hội cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Biểu dương truyền thống hiếu học của con em Công ty Nhiệt điện Thái Bình vững bước tương lai

Tấm lòng người BSR giữa đại ngàn - Thêm nhịp cầu yêu thương giữa biển với rừng

Hành trình về nguồn: Tri ân sâu sắc những người đã viết nên trang sử Tổ quốc

Diễn đàn

Tuyên Quang: Kiểm lâm chủ động giữ rừng gắn với phát triển kinh tế rừng

Thời tiết ngày 01/8: Vùng núi và trung du Bắc Bộ mưa lớn, Trung Bộ tiếp tục nắng gắt

TP. Hồ Chí Minh: Chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu để đảm bảo an ninh kinh tế

Thời tiết ngày 31/7: Bắc Bộ ngày nắng, chiều tối mưa dông, Trung Bộ tiếp tục nắng gắt