Mô hình tái chế nhựa tại các làng nghề trong bối cảnh thực thi EPR

10/07/2023

TN&MTViệc duy trì hoạt động của các làng nghề tái chế trong bối cảnh thực thi chính sách Mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR) là một quá trình khó khăn, đòi hỏi sự quyết tâm, đồng lòng thực hiện từ các cơ quan quản lý cho đến chính quyền địa phương, đặc biệt là từ các hộ dân trong làng nghề. Tuy nhiên, việc xác định rõ ràng sự cần thiết, không thể chậm trễ trong thực thi chính sách EPR sẽ là đầu mối để quá trình này diễn ra một cách thuận lợi và thống nhất.

Mô hình tái chế nhựa tại các làng nghề trong bối cảnh thực thi EPR

Thực tiễn hoạt động của làng nghề tái chế nhựa

Trong khi các làng nghề truyền thống thường gắn với các sản phẩm cụ thể dựa trên việc khai thác lợi thế sẵn có về điều kiện tự nhiên của địa phương, các làng nghề mới được hình thành hầu hết khởi đầu từ việc làm thêm vào mùa nông nhàn. Tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa, cùng với việc hình thành ngày càng nhiều các khu công nghiệp, quỹ đất dành cho nông nghiệp thu hẹp dần; bên cạnh đó, việc làm nông vất vả, phụ thuộc vào thời tiết, thu nhập thấp, trong khi các việc làm thêm có thể mang lại thu nhập ổn định và cao hơn làm nông. Từ đó, việc làm thêm lại trở thành việc chính, lôi kéo ngày càng đông đảo người dân chuyển từ làm nông sang tham gia “làm thêm”. Các làng nghề tái chế nói chung và làng nghề tái chế nhựa nói riêng cũng được hình thành như vậy.

Nhựa là sản phẩm thiết yếu trong đời sống, len lỏi vào hầu hết các sản phẩm tiêu dùng. Mức sống tại các thành phố lớn ngày càng tăng, kèm theo đó là nhu cầu sử dụng các sản phẩm nhựa cũng tăng lên nhanh chóng. Nhu cầu sử dụng nhựa phế liệu trong sản xuất là rất lớn trong khi đó, Chính phủ đưa ra các quy định chặt chẽ hơn trong việc nhập khẩu phế liệu nhựa khiến cho cung có thể không đáp ứng được cầu. Theo đó, để nhập khẩu phế liệu nhựa, tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải có kho, bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu bảo đảm điều kiện về bảo vệ môi trường; có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu, xử lý tạp chất đi kèm phế liệu đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; đặc biệt là phải ký quỹ 15% - 20% tổng giá trị lô hàng phế liệu nhựa nhập khẩu nhằm xử lý rủi ro, nguy cơ ô nhiễm môi trường có thể phát sinh từ lô hàng nhập khẩu. Những quy định này khiến cho không phải nhà nhập khẩu nào cũng đủ nguồn lực để đáp ứng được. Điều này vô hình chung khiến cho nhu cầu tái chế nhựa trong nước càng trở nên bức thiết, vai trò của các làng nghề tái chế nhựa càng trở nên quan trọng.

Lấy ví dụ điển hình tại xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa, Hà Nội là địa phương nổi tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống, điển hình là làm hương, tăm tre, mây tre đan. Thôn Xà Cầu thuộc xã Quảng Phú Cầu vốn nghề làm hương có khoảng 800 hộ dân, trong đó, hơn 170 hộ thu gom và tái chế phế liệu tại nhà (chủ yếu là tái chế nhựa). Mỗi ngày, các hộ dân trong thôn nhập khoảng 70 tấn phế liệu từ các địa phương khác.

Từ những năm 1970, người dân làng Xà Cầu làm nghề đổi dép, bắt đầu có tiếng trong việc thu thập các loại vật liệu tái chế. Những năm cuối 1990, người Xà Cầu học nghề tái chế nhựa từ làng Triều Khúc, nhanh chóng phát triển từ thu mua phế liệu nhựa đến tái chế thành các “bánh” nhựa bán cho các địa phương khác. Đến năm 2008, hoạt động thu mua phế liệu nhựa tại làng Triều Khúc có dấu hiệu suy giảm thì tại Xà Cầu đã phát triển nhanh chóng, tái chế nhựa chính thức trở thành sinh kế chính của người dân trong làng. Khi làng Xà Cầu phát triển nghề thu gom tái chế nhựa, các không gian chức năng trong làng dần bị thay đổi theo nhu cầu sản xuất của các hộ dân. Khu vực sơ chế nhựa có thể ở bên trong hoặc ngoài nhà dân. Việc phát triển bùng nổ nghề thu gom phế liệu nhựa không theo quy hoạch đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, phá vỡ cảnh quan môi trường sống, làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân. Hơn nữa, với 30% đất sản xuất nông nghiệp quanh làng, tương đương với 180 ha đất nông nghiệp đang bị bỏ hoang không canh tác do người dân tập trung vào hoạt động thu mua, phân loại và tái chế nhựa là những hệ lụy đe dọa khả năng phát triển bền vững của địa phương.

Đánh giá hoạt động tái chế nhựa tại các làng nghề

Xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động tái chế nhựa đã góp phần không nhỏ vào cải thiện mức sống cho các hộ dân trong các làng nghề tái chế nhựa, hơn nữa, từ góc độ nền kinh tế quốc gia, nguồn nhựa tái chế thay thế cho vật liệu nguyên sinh đã tạo ra lợi ích kinh tế nhất định cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh sử dụng nhựa.

Hoạt động tái chế nhựa có thể được thực hiện theo một trong ba cách: tái chế cơ học, tái chế hóa học và tái chế nhiệt. Trong đó, phương pháp tái chế cơ học có cách thức thực hiện đơn giản nhất, không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn về máy móc, thiết bị, trình độ lao động cũng chủ yếu là lao động chân tay nên là phương pháp được sử dụng phổ biến tại các làng nghề. Tuy nhiên, phương pháp này đã và đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển bền vững của địa phương.

Thứ nhất, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thực hiện tái chế cơ học, nhựa phế liệu sau khi được thu mua sẽ được phân loại, xay nghiền rửa, phơi khô hoặc ép, đóng gói. Các công đoạn như làm sạch, xay tạo hạt,… đều trực tiếp xả thải ra nguồn nước, gây ô nhiễm hóa chất và ô nhiễm vi nhựa trầm trọng. Thậm chí, nhiều rác thải khó tái chế còn được xử lý bằng cách đốt hoặc chôn lấp bừa bãi.

Quá trình tái chế phế liệu nhựa ngoài việc gây ra bụi, bẩn còn phải dùng rất nhiều hóa chất để tẩy rửa đã theo nguồn nước thải ra môi trường và theo năm tháng ngấm vào đất và nước sinh hoạt ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân. Đây chính là nguyên nhân làng Đan bị thu hồi bằng công nhận làng nghề tái chế phế liệu nhằm chấm dứt việc người dân phải sống chung với rác và đưa việc tái chế nhựa ra xa khu dân cư.

Tại một số làng nghề tái chế nhựa, nồng độ hơi khí độc hại hầu hết đều vượt tiêu chuẩn cho phép, cụ thể là: hàm lượng bụi khoảng 0,45 - 1,33 mg/m3 vượt TCCP 1,5 - 4,4 lần, THC = 5,36 mg/l vượt TCCP 1,16 lần. Làng nghề cơ khí, hàm lượng bụi tại khu trung tâm vượt TCCP 3 lần, SO2 vượt 5 lần TCCP, nước thải chứa axit, kim loại nặng, hàm lượng CN- vượt quá 65 - 117 lần TCCP).

Thứ hai, xâm phạm cảnh quan, đời sống cộng đồng dân cư. Quy mô các nhà xưởng tái chế nhựa trong làng nghề đều nhỏ, không có khu sản xuất tập trung nên các hộ dân làm tái chế chủ yếu dựng lều, lán trên đất nông nghiệp để hoạt động. Ngoài việc cơ sở tái chế không tuân thủ quy định về phòng, chống cháy nổ, bảo đảm vệ sinh môi trường, tiếng ồn, khói, bụi…; việc tận dụng các khu vực công cộng làm nơi chứa hay phơi phế liệu cũng tạo nên hình ảnh thôn xóm nhếch nhác, đe dọa an toàn và sức khỏe của người dân.

Thứ ba, mai một bản sắc truyền thống của địa phương: Tại Xà Cầu, do lợi ích tái chế nhựa quá cao so với làm nông nghiệp nên đất nông nghiệp bị bỏ hoang không canh tác. Tương tự như một số nghề thủ công truyền thống của địa phương cũng có dấu hiệu mai một dần do hiệu quả kinh tế thấp hơn so với làm tái chế nhựa. Điều này, có nghĩa là xu hướng phát triển làng nghề mới đã làm mai một làng nghề truyền thống.

Thứ tư, hạn chế trong nâng cao trình độ dân trí. Các công đoạn xoay quanh hoạt động tái chế không yêu cầu trình độ lao động cao, kỹ năng phải khéo léo, thậm chí chỉ cần kinh nghiệm truyền miệng cũng có thể làm tốt được. Chính vì vậy, giai đoạn đầu hoạt động thu mua nhựa phế liệu rồi tái chế tại các làng nghề đều được tiến hành bởi lực lượng lao động mùa nông nhàn, sau này thì làm việc dựa vào học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Thực trạng này dẫn đến hệ lụy là lực lượng lao động trong các làng nghề tái chế không ý thức được tầm quan trọng của việc được đào tạo, tập huấn các kỹ năng cũng như kiến thức liên quan một cách bài bản, từ đó hạn chế khả năng tiếp cận cũng như cách thức xử lý trước những biến động của thị trường, của hoạt động sản xuất kinh doanh.

HOÀNG THỊ PHƯƠNG LAN

Học viện Tài chính

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2023

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Đảng bộ Cục Đo đạc, bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam: Tổ chức thành công Đại hội điểm nhiệm kỳ 2025 - 2030

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Nhận diện bức tranh về thiên tai, bão lũ và bài toán ứng phó, giảm thiểu

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Lễ ra mắt Hội Doanh nhân họ Vũ - Võ TP. Hà Nội: Cột mốc kết nối, phát triển, lan tỏa giá trị dòng họ

Bắc Ninh tăng tốc chuyển đổi số, khơi thông nguồn lực trong khoa học công nghệ

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Diễn đàn

Hà Nội: Trồng nho sữa kết hợp với du lịch trải nghiệm

Thời tiết ngày 15/5: Miền Bắc bắt đầu chuỗi ngày mưa lớn cục bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 14/5: Miền Bắc ngày nắng, chiều tối mưa dông, vùng núi cục bộ có nơi mưa to

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông