
Ông Trần Quốc Tuấn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị: “Nguồn chi trả từ tín chỉ các-bon giúp công tác bảo vệ rừng tốt hơn”
28/08/2025TN&MTThoả thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) đánh dấu bước đi quan trọng trong việc thử nghiệm và mở rộng mô hình tài chính các-bon rừng ở Việt Nam. Không chỉ góp phần vào mục tiêu giảm phát thải, ERPA còn mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho người dân địa phương, đặc biệt là các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng.
Phóng viên Tạp chí Nông nghiệp & Môi trường đã có cuộc đối thoại cùng ông Trần Quốc Tuấn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị xung quanh việc chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ và công tác bảo vệ, phát triển bền vững các diện tích rừng tự nhiên hiện có của tỉnh Quảng Trị.
Ông Trần Quốc Tuấn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị
Phóng viên: Được biết, Quảng Trị là một trong những địa phương được hưởng nguồn chi trả từ tín chỉ các-bon từ nguồn Quỹ đối tác các-bon trong lâm nghiệp (FCPF) được Ngân hàng Thế giới ủy thác. Vậy nguồn ERPA được phân bố như thế nào thưa ông?
Ông Trần Quốc Tuấn: Quảng Trị có tổng diện tích rừng là 841.224 ha, trong đó: rừng tự nhiên 596.230 ha, rừng trồng 244.933ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 61,47%. Đây cũng là 1 trong 5 tỉnh được hưởng lợi từ Thỏa thuận giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA). Căn cứ kết quả giảm phát thải và diện tích rừng tự nhiên của tỉnh, giai đoạn 2023-2025, tỉnh Quảng Trị được Trung ương phân bổ hơn 364 tỷ đồng để chi trả cho các đối tượng hưởng lợi.
Nhằm tổ chức thực hiện chi trả nguồn ERPA theo quy định tại Nghị định số 107/2022/NĐ-CP của Chính phủ, Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị đã phối hợp với các sở, ngành, đơn vị có liên quan tham mưu UBND tỉnh phê duyệt Kế hoạch - Tài chính hằng năm nhằm làm cơ sở chi trả cho các đối tượng hưởng lợi theo quy định, đồng thời chỉ đạo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Trị tập trung, khẩn trương triển khai các thủ tục chi trả cho các đối tượng hưởng lợi được nhà nước giao quản lý rừng tự nhiên bao gồm các chủ rừng là tổ chức, UBND cấp xã, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân đảm bảo công khai, minh bạch, đúng đối tượng, đúng quy định.
Phóng viên: Thưa ông, được biết đây sẽ là tiền đề để mở rộng các mô hình tương tự trên cả nước, góp phần tăng cường năng lực, thể chế và hỗ trợ trong việc hoàn thiện chính sách quản lý rừng, khí hậu và tài chính các-bon để hướng đến các cam kết quốc tế về giảm phát thải?
Ông Trần Quốc Tuấn: Đúng như vậy, ERPA là Thoả thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ được ký kết giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trước đây (nay là Bộ Nông nghiệp & Môi trường) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) và được thực hiện thí điểm theo Nghị định số 107/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm vừa qua là bước quan trọng để Việt Nam thử nghiệm và mở rộng mô hình tài chính các-bon rừng; đây không chỉ là đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải mà còn mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho người dân, đặc biệt là các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng. Thỏa thuận ERPA chú trọng hỗ trợ sinh kế cho cộng đồng địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng, thông qua việc cải thiện quản lý tài nguyên, nâng cao năng lực và thể chế, đồng thời góp phần hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách quản lý rừng, khí hậu và tài chính các-bon, hướng tới thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải.
Phóng viên: Thưa ông, công tác điều phối và chi trả nguồn từ quỹ được thực hiện như thế nào?
Ông Trần Quốc Tuấn: Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành Chính sách thí điểm ERPA được thực hiện thống nhất, đồng bộ từ tỉnh tới các địa phương, chủ rừng, đảm bảo công khai, công bằng, minh bạch, đúng quy định trong quá trình triển khai thực hiện. Hằng năm, căn cứ vào số tiền được điều phối từ Trung ương và diện tích rừng tự nhiên theo kết quả diễn biến rừng của năm trước liền kề năm nhận tiền để xác định số tiền chi trả cho các đối tượng hưởng lợi.
Để có cơ sở cho việc chi trả theo quy định, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện ERPA, Kế hoạch tài chính tổng thể; phê duyệt đối tượng hưởng lợi và kế hoạch tài chính hằng năm. Căn cứ kế hoạch tài chính hằng năm được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh chi trả cho chủ rừng, Ủy ban nhân dân cấp xã và tổ chức khác được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý rừng.
Nguồn thu từ ERPA đã góp phần tăng cường nguồn lực cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng cũng như các đơn vị chủ rừng trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, các cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được giao rừng tự nhiên có thêm kinh phí để thực hiện quản lý, bảo vệ rừng. Việc triển khai ERPA cũng giúp nâng cao nhận thức của người dân về ý nghĩa của công tác bảo vệ rừng, qua đó giảm thiểu các vi phạm pháp luật lâm nghiệp.
Nguồn thu từ ERPA giúp tỉnh Quảng Trị tăng cường bảo vệ, phát triển rừng, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng, đồng thời nâng cao nhận thức và giảm vi phạm pháp luật lâm nghiệp
Phóng viên: Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ, tỉnh Quảng Trị cần triển khai những nội dung, hoạt động nào tiếp theo thưa ông?
Ông Trần Quốc Tuấn: Thứ nhất, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh cần tiếp tục tập trung rà soát, chi trả số tiền còn lại (khoảng 10%) cho các đối tượng hưởng lợi và kế hoạch tài chính được tỉnh phê duyệt năm 2025; tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát; báo cáo kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện; tham mưu đôn đốc các chủ rừng, địa phương triển khai thực hiện. Tham mưu báo cáo kết quả tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm ERPA trên địa bàn tỉnh, đặc biệt kiến nghị, đề xuất các nội dung cụ thể về cơ chế, chính sách, tài chính, quy định có liên quan đến chi trả giảm phát thải khí nhà kính trong quá trình thực hiện thí điểm.
Thứ hai, UBND các xã, phường, đặc khu, các chủ rừng chưa xây dựng kế hoạch tài chính cần khẩn trương, tập trung lập kế hoạch tài chính ERPA năm 2025 trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động ERPA. Đẩy mạnh công tác giải ngân kinh phí ERPA trong năm 2025, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng, đúng đối tượng, nội dung, đúng quy định, phấn đấu đạt tỷ lệ giải ngân đạt cao nhất. UBND cấp xã cần rà soát, đối chiếu số liệu tài chính, hồ sơ, tài liệu liên quan đến ERPA (bao gồm cả kinh phí chưa sử dụng) để thực hiện khi chuyển đổi sang chính quyền 2 cấp đảm bảo theo đúng quy định.
Thứ ba, các cấp, các ngành, địa phương liên quan cần tập trung, đẩy mạnh công tác truyền thông, tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể người dân về chính sách chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ; tăng cường tổ chức tập huấn cho các đơn vị chủ rừng là tổ chức, UBND cấp xã, cộng đồng dân cư để giúp các đối tượng hưởng lợi nắm rõ các quy định, giải đáp, hướng dẫn các nội dung liên quan đến xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện nhằm đảm bảo thực hiện chính sách hiệu quả, đúng quy định.
Phóng viên: Thưa ông, nguồn chi trả ERPA đã góp phần như thế nào trong việc nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng và giữ vững tỷ lệ che phủ rừng (61,47%) trên địa bàn tỉnh Quảng Trị?
Ông Trần Quốc Tuấn: Việc có thêm nguồn kinh phí ERPA đã giúp cho các chủ rừng là tổ chức tăng cường thêm lực lượng bảo vệ rừng thông qua hợp đồng khoán với các cộng đồng sống ven rừng; đồng thời có thêm nguồn kinh phí phục vụ cho công tác phát triển rừng bằng việc triển khai các hoạt động lâm sinh... góp phần cải thiện chất lượng rừng tự nhiên.
Chi trả ERPA đã tạo ra cơ hội gắn kết các cộng đồng với chính quyền và các tổ chức nhà nước về Lâm nghiệp, góp phần nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, bảo vệ rừng cho người dân.
Các địa phương, chủ rừng và các đơn vị liên quan đã tập trung thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh. Theo đó, các đơn vị liên quan đã tăng cường tuần tra, kiểm tra, làm tốt công tác bảo vệ rừng tại gốc, thực hiện kịp thời, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phòng cháy, chữa cháy rừng; ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng; kiểm tra, giám sát việc sử dụng rừng của chủ rừng, các dự án, công trình liên quan đến rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh, kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm Luật Lâm nghiệp, phối hợp chính quyền địa phương, cơ quan chức năng để xử lý theo đúng quy định pháp luật. Đặc biệt, đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật Lâm nghiệp.
Phóng viên: Là tỉnh có thế mạnh về diện tích rừng và trữ lượng các-bon, để khai thác tiềm năng tạo tín chỉ các-bon rừng và tận dụng thời cơ tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon rừng, các nội dung, nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tới là gì thưa ông?
Ông Trần Quốc Tuấn: Hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng, giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững và tăng trưởng xanh. Đây là loại hình dịch vụ môi trường rừng mới, tiềm năng và là nguồn thu bền vững, đặc biệt là cho người dân, cộng đồng dân cư miền núi và các đơn vị chủ rừng… Để tiếp tục khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh về diện tích rừng và trữ lượng carbon, thời gian tới, cần tập trung thực hiện các nội dung, nhiệm vụ như:
Tiếp tục tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững, chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên hiện có theo hướng nâng cao chất lượng rừng, chỉ đạo quyết liệt công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, phòng cháy chữa cháy rừng.
Đẩy mạnh phát triển dịch vụ môi trường rừng, bảo tồn đa dạng sinh học gắn với phát triển du lịch sinh thái, triển khai thực hiện có hiệu quả chỉ tiêu, kế hoạch của các chương trình, dự án về bảo vệ và phát triển rừng. Đẩy mạnh phát triển trồng rừng gỗ lớn, gắn với xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến vào quản lý, bảo vệ rừng, theo dõi diễn biến rừng.
Tổ chức điều tra, theo dõi diễn biến rừng, điều tra sinh khối và trữ lượng các-bon rừng nhằm phục vụ công tác quản lý rừng, tạo cơ sở dữ liệu để khai thác tiềm năng tín chi các-bon rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Ngoài diện tích rừng tự nhiên, cần hợp tác, phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước đánh giá diện tích hợp lệ và ước tính tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính từ việc thực hiện các hoạt động trồng rừng mới theo các tiêu chuẩn về tạo tín chỉ các-bon, trong đó đảm bảo tiêu chí rừng được trồng trên đất không có rừng trong 10 năm; các hoạt động chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn trên diện tích rừng được cấp chứng chỉ; các hoạt động trồng và phục hồi rừng ngập mặn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông về buổi trò chuyện!
Đinh Loan