
Tái cơ cấu hệ thống ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật trong tình hình mới: Thách thức và yêu cầu thích ứng
23/09/2025TN&MTViệc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, cùng với mô hình chính quyền địa phương hai cấp, đã tạo ra những thay đổi lớn trong tổ chức bộ máy ngành nông nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật (BVTV). Những thay đổi này không dừng lại ở việc thu gọn bộ máy quản lý, đồng thời kéo theo sự xáo trộn trong cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, triển khai kỹ thuật và giám sát chuyên ngành.
Trong bối cảnh không còn tổ chức cấp huyện và sự phân mảnh ở cấp trạm, công tác chỉ đạo sản xuất, nắm bắt số liệu và quản lý vùng sinh thái đang đứng trước nhiều thách thức. Cần có những nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời về tổ chức ngành và phân vùng sản xuất nhằm thích ứng với thực tiễn mới.
Việc tái cơ cấu hệ thống ngành trong bối cảnh hành chính mới đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn và thực tiễn sản xuất
Trước thực tiễn tái định hình địa giới hành chính, tác động trực tiếp đến cơ cấu ngành nông nghiệp, sau quá trình sáp nhập, Các tỉnh phía Bắc trước đây là 31 tỉnh (11 ĐBSH, 14 Trung du và miền núi PB, 6 Bắc Trung Bộ), sau sáp nhập còn 20 tỉnh, trong đó 6 tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) (TP. Hà Nội, TP. Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình), 9 tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc (TDMNPB) (Tuyên Quang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Sơn La, Thái Nguyên, Phú Thọ), 5 tỉnh Bắc Trung Bộ (BTB) (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế). Sự thay đổi này không đơn thuần là vấn đề hành chính, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến cơ cấu tổ chức, quy hoạch vùng và phương thức chỉ đạo sản xuất nông nghiệp.
Cụ thể, khu vực (ĐBSH) nay còn 6 tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình; vùng (TDMNPB) còn 9 tỉnh; (BTB) có 5 tỉnh. Đặc biệt, các tỉnh sáp nhập như: Vĩnh Phúc (ĐBSH) + Phú Thọ, Hòa Bình (TDMNPB) → thành tỉnh Phú Thọ mới; Bắc Ninh (ĐBSH) + Bắc Giang (TDMNPB) → thành tỉnh Bắc Ninh mới …đặt ra vấn đề cần xem xét lại toàn bộ quy hoạch phân vùng sinh thái nông nghiệp.
Trước đây, cơ cấu cây trồng và thời vụ được xây dựng dựa trên điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của từng tỉnh. Việc sáp nhập các tỉnh có điều kiện sinh thái khác biệt khiến cho các khuyến cáo kỹ thuật, lịch thời vụ và mô hình sản xuất phải được điều chỉnh lại cho phù hợp.
Chính quyền hai cấp: Thu gọn bộ máy, gián đoạn chỉ đạo chuyên ngành. Việc chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh, xã) dẫn đến xóa bỏ cấp huyện trong bộ máy quản lý, kéo theo đó là sự giải thể của toàn bộ hệ thống cán bộ quản lý nhà nước về trồng trọt và BVTV tại cấp huyện, vốn từng là tuyến trung gian cực kỳ quan trọng trong tổ chức sản xuất nông nghiệp.
Ở cấp tỉnh, hiện nay, 15/20 tỉnh có thành lập Chi cục Trồng trọt và BVTV, như: Tuyên Quang, Lai Châu, Thái Nguyên, Sơn La, Phú Thọ, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Ninh Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Huế. Một số tỉnh khác tổ chức chi cục theo hướng đa nhiệm như Lào Cai: Chi cục Trồng trọt, BVTV và Chăn nuôi, Thú y, Thủy sản; Cao Bằng: Chi cục Trồng trọt; Hà Tĩnh: Chi cục Trồng trọt và Chăn nuôi; Điện Biên: Chi cục Nông nghiệp; Lạng Sơn: Không thành lập Chi cục; giao nhiệm vụ trồng trọt và BVTV cho Trung tâm Khuyến nông và Phòng chuyên môn thuộc Sở.
Mô hình tổ chức không đồng nhất giữa các tỉnh dẫn đến thiếu tính hệ thống, làm giảm hiệu quả phối hợp vùng và chỉ đạo thống nhất từ Trung ương.
Ở cấp trạm, chỉ 8 tỉnh thành lập các trạm trực thuộc Chi cục (số lượng và cơ cấu trạm khác nhau): Phú Thọ (11 trạm TT&BVTV); Tuyên Quang (8 trạm); Hải Phòng (10 trạm); Ninh Bình (5 trạm); Hà Tĩnh (9 trạm BVTV và Thú y); Quảng Trị (5 trạm); Huế (4 trạm); Bắc Ninh (1 trạm KDTV nội địa và 4 trạm BV&KDTV).
Còn lại, các tỉnh đều chuyển nhiệm vụ về Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp hoặc Trung tâm Khuyến nông, khiến việc quản lý chuyên môn bị gián đoạn, vì các trung tâm này không nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chi cục mà chỉ mang tính hỗ trợ kỹ thuật.
Những hệ lụy trong công tác chỉ đạo và quản lý, việc thiếu cấp huyện, cộng với sự phân mảnh trong hệ thống trạm, dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác: Nắm bắt tình hình sản xuất và số liệu dịch hại: Các số liệu không còn được báo cáo xuyên suốt từ xã, huyện, tỉnh, gây chậm trễ trong việc đưa ra các khuyến cáo sản xuất hay biện pháp phòng trừ dịch bệnh; thiếu thống nhất trong chỉ đạo chuyên môn: Một số trạm chuyển về Khuyến nông hoặc Trung tâm dịch vụ bị lệch mục tiêu sang dịch vụ hóa, trong khi nhiệm vụ giám sát nhà nước, thanh tra chuyên ngành gần như không thực hiện được; khó khăn trong xây dựng kế hoạch vùng sinh thái mới: Sự chênh lệch giữa các vùng trong tỉnh mới sáp nhập khiến việc đưa ra lịch thời vụ, mô hình cây trồng thống nhất rất khó khả thi.
Cần tổ chức lại hệ thống ngành theo hướng bền vững và linh hoạt, trước thực trạng này, để đảm bảo hiệu quả quản lý ngành trồng trọt và BVTV, cần triển khai một số giải pháp. Rà soát, đánh giá lại phân vùng sinh thái, cần có các nghiên cứu liên ngành (nông nghiệp, khí tượng, thổ nhưỡng, thủy lợi…) để đánh giá lại điều kiện tự nhiên của các tỉnh mới sáp nhập. Việc này giúp: Xác định cơ cấu cây trồng phù hợp; Điều chỉnh lịch thời vụ sát thực tế; Xây dựng mô hình sản xuất theo vùng trọng điểm, tránh áp dụng máy móc quy trình cũ.
Sự thay đổi về tổ chức hành chính là tất yếu trong tiến trình cải cách bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, vốn gắn chặt với điều kiện tự nhiên và quy mô nhỏ lẻ, thì bất kỳ sự điều chỉnh nào cũng cần có nghiên cứu kỹ lưỡng và phương án chuyển tiếp phù hợp.
Việc sáp nhập tỉnh, thay đổi mô hình chính quyền, nếu không đi kèm với cải cách tương ứng trong hệ thống ngành sẽ khiến các thiết chế hỗ trợ nông dân bị suy yếu. Đây là lúc cần có những quyết sách mang tính chiến lược, từ Trung ương đến địa phương, để đảm bảo tính liên thông, kịp thời và hiệu quả trong công tác quản lý và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.
Sỹ Tùng - Mạnh Hải