Trồng lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh

30/03/2025

TN&MTSau hơn một năm từ khi Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” (gọi tắt là Đề án) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các mô hình thí điểm cho thấy những kết quả khả quan. Tuy nhiên, để sớm đạt mục tiêu một triệu ha vào năm 2030, cần thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ nhóm nông dân ngành hàng lúa gạo.

Trồng lúa giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh

Cán bộ khuyến nông hướng dẫn canh tác thông minh cho thành viên Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Thanh niên Phú Hòa, xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang

Theo Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (Vietrisa), kết quả 7 mô hình thí điểm trồng lúa phát thải thấp từ đầu năm 2024 đến nay tại các tỉnh, thành phố: Kiên Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ cho thấy, các mô hình này đã giảm 30-50% lượng giống (chỉ còn sử dụng 60-70 kg/ha so với trước đây lượng giống cao nhất lên đến 150 kg/ha), tiết kiệm được 600.000 đến 1,6 triệu đồng/ha; lượng phân bón giảm từ 30-70 kg đạm/ha tương đương 700.000 đến 1,6 triệu đồng/ha; tổng số lần phun thuốc bảo vệ thực vật giảm từ 1-4 lần. Trong khi đó, năng suất bình quân tăng từ 0,3-1,3 tấn/ha tùy theo lượng giống.

Tính tổng hiệu quả kinh tế, mô hình trồng lúa chất lượng cao giảm phát thải tăng từ 5,6 đến 17,6 triệu đồng/ha so với ngoài mô hình.

Việc quản lý rơm rạ cũng đạt hiệu quả tốt khi các mô hình đều thực hiện thu gom rơm ra khỏi đồng ruộng để phục vụ trồng nấm hoặc ủ phân hữu cơ từ rơm.

Tại các mô hình thí điểm còn thực hiện quản lý nước ngập khô xen kẽ (AWD), từ đó làm giảm lượng khí Metan (CH4) và các khí khác, góp phần giảm phát thải khí nhà kính. So với mục tiêu đặt ra trong Đề án là giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống 80-100 kg/ha, giảm 20% lượng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống, 100% diện tích áp dụng ít nhất một quy trình canh tác bền vững như “1 phải 5 giảm”, tưới ngập khô xen kẽ, tiêu chuẩn sản xuất lúa bền vững (SRP)... thì có thể thấy các mô hình đã được triển khai khá hiệu quả.

Thành quả này là nhờ trong quá trình triển khai mô hình tại các hợp tác xã đã có sự liên kết theo chuỗi giá trị. Cụ thể, hợp tác xã tham gia mô hình hiện nay đều có các dịch vụ chính là canh tác lúa theo Đề án, cung cấp dịch vụ nước, cơ giới hóa, sấy lúa, thu gom rơm; thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn từ rơm. Hợp tác xã liên kết với các đối tác như: thương lái, doanh nghiệp mua bán và xuất khẩu lúa gạo, nhà cung cấp nguyên liệu canh tác; có hợp đồng sản xuất với nông dân, doanh nghiệp xuất khẩu gạo; có phân khúc khách hàng là nông dân trong khu vực, doanh nghiệp mua bán xuất khẩu gạo, thị trường địa phương và quốc tế (lúa, gạo, tín chỉ carbon).

Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (Vietrisa) Trần Minh Hải cho rằng: Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long” với mục tiêu chính là tái cơ cấu ngành lúa gạo theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững. Đề án này góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và lợi ích cho người tiêu dùng, trong đó, việc liên kết theo chuỗi giá trị đóng vai trò quan trọng.

Để đẩy mạnh liên kết, đạt mục tiêu 100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã hoặc các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì cần xác định và công bố diện tích tham gia Đề án tại từng địa phương để mời doanh nghiệp liên kết; nâng cao chất lượng hợp tác xã để làm đầu mối đại diện nông dân và để liên kết với doanh nghiệp; giúp hợp tác xã đóng vai trò kết nối “mua chung, bán chung” chứ không phải “mua đứt, bán đoạn”.

“Muốn vậy thì cần tăng quy mô sản xuất của hợp tác xã thông qua việc tăng số lượng thành viên; quy mô diện tích sản xuất cũng phải đủ lớn, ít nhất đạt 300-500 ha thì mới thu hút được doanh nghiệp; nâng cao năng lực điều hành của hội đồng quản trị và ban giám đốc hợp tác xã để đủ điều kiện làm các dịch vụ cho doanh nghiệp như: chốt giá, thời điểm thu hoạch, máy thu hoạch, phân loại, vận chuyển...”, ông Hải nhấn mạnh.

Trong bối cảnh thị trường lúa gạo trong nước và thế giới có những biến động về nguồn cung, giá cả ngay từ đầu năm 2025 thì việc đẩy nhanh triển khai Đề án càng trở nên cần thiết.

Tại Công điện số 21/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/3/2025 về việc điều hành bảo đảm cân đối cung cầu lúa gạo trước diễn biến thị trường thế giới và trong nước, Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục tập trung chỉ đạo triển khai có hiệu quả Đề án, đặc biệt là đẩy mạnh nhân rộng quy trình sản xuất lúa giảm phát thải để giảm chi phí sản xuất và tăng giá bán cho nông dân. Đây cũng chính là giải pháp mang tính đột phá trong tổ chức lại sản xuất ngành hàng lúa gạo, hướng tới tăng trưởng xanh, bảo đảm phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.

Theo nhandan.vn

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Việt Nam - Australia hợp tác phát triển nông nghiệp xanh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Nông nghiệp

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Giò chả Ước Lễ Xuân Hương, sản phẩm OCOP 4 sao - tinh hoa hương vị Việt giữ trọn hồn dân tộc

Đắk Lắk: Nông dân được mùa “vải thiều” nhờ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và ứng dụng khoa học kỹ thuật

Định hình cơ quan Nông nghiệp và Môi trường cấp xã trong giai đoạn mới

Tài nguyên

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Quảng Bình - Quảng Trị: Cơ hội vàng cho kinh tế biển bứt phá

Khai thác đúng sản lượng cấp phép, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Cộng đồng xanh Hà Nội: Khi những người trẻ chọn sống tử tế với môi trường

Ngô Quyền (Hà Đông): Đường thành bãi lầy sau mưa, dân khốn khổ vì bụi bẩn và ô nhiễm

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

3 huyện, thị xã về đích nông thôn mới

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt

Tiêu dùng xanh trong đô thị: Thay đổi thói quen hướng tới phát triển bền vững