
Vai trò chỉ đạo điều hành trong thành công của công tác nghiên cứu phát triển giống thủy sản nước ngọt tại đơn vị ở Đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2020 - 2025
14/08/2025TN&MTTrong nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng bộ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II đã phát huy tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, bám sát định hướng của Đảng ủy Khối cơ sở Bộ Nông nghiệp và PTNT, Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và PTNT), hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trong lĩnh vực chọn giống và phát triển giống thủy sản nước ngọt.
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Công tác nghiên cứu, chọn giống cá tra
- Triển khai hiệu quả chương trình chọn giống cá tra từ năm 2001, tập trung vào hai tính trạng: tăng trưởng nhanh và kháng bệnh gan thận mủ.
- Đã chọn tạo đàn cá tra bố mẹ đến thế hệ G5, với hiệu quả chọn lọc tăng trưởng đạt trên 34% so với đàn cá chưa qua chọn giống.
- Lần đầu tiên giải mã thành công bộ gen cá tra, xác định được các chỉ thị phân tử (SNP) liên kết với tính trạng tăng trưởng và kháng bệnh.
- Giai đoạn 2023 - 2025, Viện đã phát tán hơn 60.000 cá hậu bị chọn giống đến các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, đáp ứng nhu cầu giống chất lượng cao của ngành hàng cá tra.
2. Chọn giống các loài thủy sản khác
- Chọn tạo cá rô phi đỏ thế hệ G5-G8 với hiệu quả chọn lọc tăng trưởng 7 - 10% mỗi thế hệ.
- Nghiên cứu, phát triển và nhân giống các loài quý hiếm như: cá hô, cá vồ cờ, cá trà sóc, cá bông lau, cá tra bần, cá dứa vây xanh, cá sửu, cá cóc,...
3. Ứng dụng và chuyển giao công nghệ
- Triển khai các mô hình sản xuất giống hiệu quả, tỷ lệ sống cao.
- Chuyển giao công nghệ cho hơn 200 lượt nông hộ, cán bộ kỹ thuật và doanh nghiệp.
- Tham gia đào tạo, tập huấn chuyên sâu về kỹ thuật chọn giống và sinh sản nhân tạo.
II. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH
Đảng bộ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II luôn bám sát chủ trương của Đảng ủy Khối cơ sở Bộ Nông nghiệp và PTNT, Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và PTNT) để chỉ đạo sát sao, hỗ trợ kịp thời các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KH&CN); kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai các đề tài, dự án, đảm bảo tiến độ và chất lượng; và cũng phối hợp hiệu quả với các viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước.
III. NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI
- Các chương trình chọn giống còn bị giới hạn bởi thời gian nghiên cứu theo từng giai đoạn (thường chỉ xét duyệt thực hiện trong 03 năm/giai đọan), dẫn đến tình trạng bị gián đoạn trong chọn tạo giống, và kinh phí thực hiện các công nghệ mới như chọn giống hệ gen, công nghệ tin sinh học trong thủy sản còn hạn chế.
- Trang thiết bị, cơ sở vật chất nghiên cứu chưa đồng bộ và còn thiếu so với yêu cầu hiện đại hóa ngành sản xuất giống. Điều kiện cở sở vật chất cho nghiên cứu cần được đầu tư để kịp thời nắm bắt được xu hướng, và đủ để tập trung nghiên cứu tạo ra các công nghệ mới đáp ứng nhu cầu thực tiễn của nghành sản xuất giống và nuôi thương phẩm.
- Chưa được phép, cũng như chủ động được để xây dựng hình thành chuỗi liên kết hiệu quả trong sản xuất, quản lý chất lượng con giống và thương mại sản phẩm; từ đó, dẫn đến nhiều vấn đề phát sinh trong phát triển con giống như một số cơ sở sản xuất giống còn hạn chế trong ứng dụng kỹ thuật đã hoàn thiện, như: nuôi vỗ và quản lý đàn cá bố mẹ, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm KH&CN mà đơn vị tạo ra.
- Việc thương mại hóa và quảng bá các sản phẩm KH&CN có chất lượng như cá tra chọn giống, cá rô phi đỏ chọn giống là chưa có cơ chế nên chưa phát huy được tiềm năng tương xứng với giá trị thực tế.
IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Để khắc phục những tồn tại và thúc đẩy phát triển bền vững trong giai đoạn tới, Đảng bộ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II xin đề xuất một số giải pháp như sau:
- Tiếp tục việc nghiên cứu phát triển các chương trình chọn giống, nghiên cứu phát triển chọn giống hệ gen các tính trạng tăng trưởng và kháng bệnh cho các dối tượng chủ lực, như: cá tra, cá rô phi đỏ, tôm càng xanh,... giúp ổn định và cải thiện hiệu quả năng suất và sản lượng cho nghề nuôi trồng thủy sản.
- Tiếp tục đầu tư nghiên cứu phát triển các đối tượng thủy sản bản địa có giá trị kinh tế cao, như: cá tra bần, cá dứa vây xanh, cá bông lau, cá cóc, cá sửu... và các loài cá quý hiếm như cá hô, cá vồ cờ, cá trà sóc; hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm để mở rộng đa dạng đối tượng nuôi, thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Xây dựng và phát triển mô hình liên kết chuỗi sản xuất từ con giống đến nuôi thương phẩm, có sự quản lý chất lượng đồng bộ và minh bạch.
- Tăng cường đào tạo, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật tiên tiến cho các cơ sở sản xuất giống; ứng dụng mạnh mẽ các giải pháp công nghệ cao trong sản xuất giống và quản lý đàn cá bố mẹ.
- Nhà nước và Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần có cơ chế khuyến khích, công nhận các cơ sở sản xuất giống sử dụng đàn bố mẹ chọn giống, tạo thuận lợi trong quảng bá và phát triển thị trường.
V. KIẾN NGHỊ
- Tiếp tục đầu tư cho các chương trình chọn giống dài hạn, có tính kế thừa giữa các thế hệ chọn giống.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học để ưu tiên nghiên cứu chọn giống cá tra tăng trưởng nhanh, kháng bệnh và các tính trạng như chất lượng thịt, giàu Omega-3.
- Phát triển hệ thống chỉ thị phân tử để hỗ trợ chọn giống chính xác hơn.
- Tăng cường liên kết chuỗi giữa cơ sở nghiên cứu - sản xuất - thương mại, bảo đảm truy xuất nguồn gốc và chất lượng giống.
- Bộ Nông nghiệp và Môi trường xem xét cho thực hiện nhiệm vụ KH&CN lâu dài như các chương trình chọn giống đối tượng thủy sản; đồng thời, hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất và công nhận cơ sở sản xuất giống sử dụng đàn bố mẹ chọn giống.
Với sự quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên của các cấp ủy Đảng cấp trên (Đảng ủy Khối cơ sở Bộ NN&PTNT, Đảng ủy Bộ NN&MT - trước đây là Đảng ủy Bộ NN&PTNT) đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự đoàn kết nội bộ, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính sáng tạo và chủ động của từng cán bộ, đảng viên trong công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, đưa lĩnh vực khoa học và công nghệ thủy sản của đơn vị phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, phù hợp với thực tiễn sản xuất và xu thế mới.
Tham luận của Đảng bộ Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II