
Xây dựng Kịch bản nguồn nước (lần đầu) cho lưu vực sông Mã và Bằng Giang - Kỳ Cùng
17/03/2025TN&MTThực hiện nhiệm vụ được giao, thời gian qua, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị chuyên môn thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức nhiều cuộc họp để nghiên cứu, thống nhất các phương pháp tiếp cận, xây dựng Kịch bản nguồn nước cho 2 lưu vực sông Mã và Bằng Giang - Kỳ Cùng. Đến nay, dự thảo kịch bản nguồn nước trên 2 lưu vực sông này đã hoàn thiện.
Xây dựng Kịch bản nguồn nước nhằm mục tiêu phục vụ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông
Theo ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý TNN, kịch bản nguồn nước cho 2 LVS Mã và Bằng Giang - Kỳ Cùng là cơ sở để các ngành có khai thác, sử dụng nước và các địa phương trong LVS xây dựng, điều chỉnh kế hoạch khai thác, sử dụng nước, từ đó, sẽ chủ động được cơ cấu mùa vụ, cây trồng,… chủ động ứng phó với tình trạng thiếu nước, dư thừa nước từ sớm, từ xa và hạn chế được các thiệt hại.
Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên 2 LVS Mã và Bằng Giang - Kỳ Cùng được xây dựng nhằm mục tiêu phục vụ công tác điều hòa, phân phối TNN trên LVS, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân. Đồng thời, làm căn cứ để các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh trên 2 LVS, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng TNN phù hợp với Kịch bản nguồn nước theo quy định tại khoản 1, khoản 5 và khoản 6 Điều 35 Luật TNN năm 2023 và khoản 2 Điều 43 Nghị định số 53/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TNN.
Kịch bản nguồn nước trên 2 LVS này được xây dựng dựa trên hiện trạng nguồn nước mặt, nước dưới đất, hiện trạng tích trữ nước trong các hồ chứa trên lưu vực, nhu cầu khai thác, sử dụng TNN; nhận định xu thế diễn biến lượng mưa, lượng dòng chảy, mực nước trong các tầng chứa nước và thông tin, số liệu do Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, UBND các tỉnh trực thuộc trung ương trên lưu vực và các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước lớn, quan trọng trên 2 LVS cung cấp.
Xây dựng phương án và thực hiện việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước
Về nội dung, Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên 2 LVS được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 41 Nghị định số 53/2024/NĐ-CP, gồm những nội dung chính sau: Hiện trạng nguồn nước mưa, nước mặt; hiện trạng nguồn nước dưới đất; hiện trạng tích nước của các hồ chứa; dự báo xu thế diễn biến mưa, dòng chảy, lượng nước tích trữ trong các hồ chứa nước lớn, quan trọng; mực nước trong các tầng chứa nước trong kỳ công bố kịch bản nguồn nước; nhu cầu khai thác, sử dụng nước của các ngành trong kỳ công bố kịch bản nguồn nước; trạng thái của nguồn nước trên LVS kết luận và kiến nghị.
Đối với LVS Mã, ông Nguyễn Anh Tú - Phó giám đốc Trung tâm Thẩm định và Kiểm định TNN, Cục Quản lý TNN cho biết, trên cơ sở kết quả dự báo xu thế diễn biến nguồn nước mặt, nguồn nước dưới đất, khí tượng, thủy văn trên LVS Mã, nhu cầu sử dụng nước, yêu cầu về nguồn nước trên lưu vực phục vụ cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện và các yêu cầu về đảm bảo an ninh nguồn nước, an ninh lương thực trong kỳ công bố kịch bản, về tổng thể nguồn nước các hồ chứa lớn, quan trọng, nguồn nước trên các LVS, tiểu LVS Mã cơ bản ở “Trạng thái bình thường”, lượng nước vẫn có thể khai thác đảm bảo đủ cho các nhu cầu sinh hoạt, an sinh xã hội; đảm bảo đầy đủ lượng nước cho các ngành kinh tế, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nguồn nước trên lưu vực trong kỳ công bố kịch bản không phải là “dồi dào” và vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu nước nếu không khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Một số tiểu vùng, tiểu lưu vực, một số xã, huyện thuộc các địa phương như: Điện Biện, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa vẫn có khả năng xảy ra thiếu nước cục bộ và nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ có khả năng thiếu nước ở các tiểu vùng là thiếu các công trình khai thác nước, công trình, hệ thống công trình thủy lợi còn thiếu, chưa đồng bộ.
Bên cạnh đó, đối với việc sử dụng nguồn nước cấp cho các mục đích sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp và phát điện mặc dù năm 2025, nguồn nước ở “Trạng thái bình thường”, tuy nhiên, đối với hồ Hủa Na, Cửa Đạt, trường hợp có yêu cầu gia tăng nhu cầu nước cho phát điện (sau khi đã đáp ứng đủ các nhu cầu nước khác) hoặc gia tăng lượng nước tưới nông nghiệp trong các tháng 2, 3 (thời kỳ đổ ải vụ Đông Xuân) với tổng nhu cầu nước lớn hơn nhu cầu nước của năm 2019 (năm có nhu cầu nước lớn nhất trong giai đoạn 2018-2024), nguồn nước của 2 hồ chứa có Hủa Na, Cửa Đạt có nguy cơ không đáp ứng đủ lượng nước cho các nhu cầu dùng nước ở hạ du cho các tháng cuối mùa cạn, mực nước hồ Cửa Đạt có nguy cơ hạ thấp về dưới ngưỡng an toàn trong các tháng tiếp theo mùa cạn năm 2025,...
Đối với hồ Trung Sơn, trong trường hợp gia tăng phát điện trong tháng 1 và 2 hoặc tháng 4, 5 nắng nóng cao điểm (lớn hơn nhu cầu nước cấp so với kế hoạch sử dụng nước mùa cạn năm 2025) thì mực nước hồ Trung Sơn có nguy cơ hạ thấp dưới ngưỡng an toàn trong các tháng tiếp theo và có nguy cơ không đảm bảo khoảng mực nước quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa ở các tháng tiếp theo.
Đối với LVS Bằng Giang - Kỳ Cùng, bà Giang Thanh Bình - Phó giám đốc Trung tâm Thông tin - Kinh tế TNN (Cục Quản lý TNN) cho biết, trên cơ sở hiện trạng, dự báo xu thế diễn biến nguồn nước, khí tượng, thuỷ văn trên LVS, đặc thù khai thác, sử dụng nước của các ngành sử dụng nước trên lưu vực, hiện trạng tích nước của các hồ chứa thủy lợi quan trọng và năng lực lấy nước của các công trình thủy lợi vừa và nhỏ không thay đổi so với năm 2024 thì nhận định khả năng nguồn nước trên LVS Bằng Giang - Kỳ Cùng trong mùa cạn 2024 - 2025 ở “Trạng thái bình thường”.
Tuy nhiên, một số vùng, tiểu LVS vẫn còn có nguy cơ xuất hiện tình trạng thiếu nước với quy mô nhỏ, mang tính cục bộ và bên cạnh nguyên nhân thiếu hụt lượng mưa, lượng dòng chảy thì nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ có khả năng thiếu nước ở các tiểu vùng là năng lực lấy nước và số lượng của các công trình khai thác, công trình, hệ thống công trình thủy lợi còn thiếu, chưa đồng bộ.
Đặc biệt, tại một số xã thuộc huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, một số xã thuộc các huyện Hòa An, Nguyên Bình, Hà Quảng, Trùng Khánh, Quảng Hòa, TP. Cao Bằng tỉnh Cao Bằng vẫn có khả năng xảy ra thiếu nước cục bộ và nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ có khả năng thiếu nước ở các tiểu vùng là năng lực lấy nước và số lượng các công trình khai thác, công trình thủy lợi còn thiếu, chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, tại 7 xã: Lũng Nặm, Tổng Cọt, Nội Thôn, Cải Viên, Thượng Thôn, Mã Ba, Hồng Sỹ (vùng Lục khu cũ) của huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng có nguy cơ xảy ra thiếu nước sinh hoạt do địa hình cao, lượng mưa ít, không có sông, suối cung cấp nước.
Dựa vào kịch bản nguồn nước, Bộ TN&MT cũng đưa ra khuyến nghị để đưa ra cảnh báo, định hướng, xây dựng phương án và thực hiện việc điều hòa, phân phối TNN cho các bộ, ngành, địa phương trên LVS Mã và LVS Bằng Giang - Kỳ Cùng.
Theo các thành viên Hội đồng đều đánh giá cao kết quả tính toán xây dựng kịch bản nguồn nước LVS Mã và sông Bằng Giang - Kỳ Cùng của đơn vị chủ trì xây dựng. Các thành viên Hội đồng cũng đã góp ý chi tiết nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung kịch bản nguồn nước trên 2 LVS. Hội đồng cũng nhất trí thông qua dự thảo kịch bản sau khi đơn vị thực hiện tiếp thu, chỉnh sửa các góp ý của các thành viên hội đồng trước khi trình phê duyệt.
PHƯƠNG CHI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 3 năm 2025