Chuyên đề Góp ý cho EPR: Bài 2: Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

11/11/2023

TN&MTEPR là một chiến lược/chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn thải bỏ trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR là việc các nhà sản xuất chịu trách nhiệm chính trong quản lý hợp lý sản phẩm thải bỏ, bao gồm: thu gom chất thải, tiền xử lý (như phân loại,làm sạch, sơ chế) và tái chế/xử lý sản phẩm thải đó. Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện mở rộng trách nhiệm của mình, thông qua đóng góp nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện trực tiếp/gián tiếp hoạt động thu gom, xử lý/tái chế sản phẩm thải bỏ, và hỗ trợ vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). EPR có thể được thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Quy định về EPR tại Việt Nam (điều 54, Luật Bảo vệ Môi trường 2020 và các điều 77-82 của Nghị định 08/2022/NĐ-CP) sẽ có hiệu lực đối với nhiều nhóm sản phẩm, bao bì từ ngày 01/01/2024. Tuy nhiên, để tuyên truyền rộng về EPR đến tất cả người dân và doanh nghiệp, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường tiếp tục thông tin đến bạn đọc nội dung này từ chia sẻ của TS. Nguyễn Đức Quảng - Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường.

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

TS. Nguyễn Đức Quảng

PV: Thưa ông, xin ông cho biết một số thông tin về EPR và tại sao nhà sản xuất, nhập khẩu phải thực hiện nghiêm túc quy định EPR với môi trường?

TS. Nguyễn Đức Quảng: EPR có nhiều cách định nghĩa, nhưng hiểu đơn giản đó là một chính sách môi trường, trong đó nhà sản xuất được yêu cầu có trách nhiệm chính đối với sản phẩm của mình sau khi chúng được thải bỏ. . Cụ thể là các nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý phù hợp sản phẩm thải bỏ của mình, bao gồm thu gom sản phẩm thải bỏ từ người sử dụng cuối cùng, tiền xử lý (như phân loại, sơ chế, làm sạch), và xử lý/tái chế sản phẩm thải bỏ. Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua đóng góp nguồn lực tài chính cần thiết, hoặc tự thực hiện hoạt động quản lỳ phù hợp sản phẩm thải bỏ, cũng như việc hỗ trợ cộng đồng trong toàn bộ quá trình. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp. nhưng luôn cần được quy định bởi một khung pháp lý hiệu quả.

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

Ảnh minh họa

EPR chuyển trách nhiệm công ích trong quản lý chất thải từ sang thành trách nhiệm của các nhà sản xuất/nhập khẩu sản phẩm. Điều này sẽ dẫn đến việc cộng các chi phí quản lý hợp lý chất thải vào trong chi phí sản xuất sản phẩm, giảm lượng rác thải ra môi trường và tăng khả năng tái chế và tái sử dụng. EPR đặc biệt chú trọng giảm tác động môi trường ở giai đoạn thải bỏ, thông qua việc quản lý chặt dòng sản phẩm thải bỏ và chuyển các sản phẩm thải này thành vật liệu quay trở lại chu trình vật chất. Hai đặc trưng chủ yếu của chính sách EPR là: (1) Trách nhiệm công đối với sản phẩm ở giai đoạn sau tiêu dùng được chuyển lên giai đoạn trên trong chuỗi sản xuất - tiêu dùng, tức là chuyển lên cho nhà sản xuất/nhập khẩu; và (2) Khuyến khích người sản xuất cân nhắc đến vấn đề môi trường ngay từ khâu thiết kế sản phẩm.

Các công cụ để thực hiện EPR có thể là các yêu cầu mang tính pháp lý về việc thu hồi lại sản phẩm (với tỷ lệ thu hồi cụ thể); các công cụ kinh tế và thị trường (đặt cọc - hoàn trả, trợ cấp môi trường); phí thải bỏ, thuế nguyên vật liệu (đối với nguyên vật liệu khó tái chế và độc hại), các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (tỉ lệ tái chế tối thiểu, thiết kế vì môi trường, quy cách tái chế bắt buộc, tiêu chuẩn vật liệu tái chế); các công cụ về thông tin (báo cáo thường niên, dán nhãn sản phẩm, thông báo với khách hàng về trách nhiệm của nhà sản xuất và phân loại rác, thông báo cho các nhà tái chế về các nguyên vật liệu sử dụng trong sản phẩm). Các công cụ này cần được sử dụng tổng hợp và đồng nhất để tăng hiệu quả thực thi EPR.

PV: Quy định EPR sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2024, ông đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp khi triển khai EPR thưa ông?

TS. Nguyễn Đức Quảng: Để hỗ trợ Bộ TN&MT xây dựng Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT năm 2020 (về sau là Nghị định 08/2022/NĐ-CP), trong năm 2021, Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT (Bộ TN&MT) có thực hiện khảo sát một số doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) trong lĩnh vực bao bì nhựa về mức độ sẵn sàng thực hiện quy định về trách nhiệm tái chế và trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải. Việc khảo sát được thực hiện thông qua gửi phiếu câu hỏi (31 doanh nghiệp) và phỏng vấn trực tiếp, trực tuyến (15 doanh nghiệp) bao gồm các doanh nghiệp nhựa bao bì (doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu), doanh nghiệp tái chế nhựa phế liệu và doanh nghiệp tiêu thụ bao bì nhựa (mở rộng, bổ sung đối tượng trong quá trình khảo sát).

Kết quả khảo sát cho thấy, số doanh nghiệp có nhận thức ban đầu về trách nhiệm thu gom, tái chế và xử lý sản phẩm thải bỏ của mình theo quy định tại Điều 54, 55 là 29/31 doanh nghiệp trả lời phiếu khảo sát, chiếm tỷ lệ khá cao 93,55%. Đây chính là điểm thuận lợi chính khi triển khai áp dụng Điều 54, 55 của Luật BVMT đối với đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đại đa số các doanh nghiệp được khảo sát đều khẳng định nhận thức và trách nhiệm BVMT trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và nhận định việc thực hiện một cách nghiêm túc luật pháp về BVMT cũng là một hình thức giúp doanh nghiệp phát triển hình ảnh của mình. Do đó, việc thực hiện EPR được nhìn nhận như một hình thức để doanh nghiệp thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của mình.

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

Ảnh minh họa

Kết quả khảo sát doanh nghiệp về khả năng thực hiện các quy định liên quan đến trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp đều đồng ý với các nội dung có liên quan đến hệ thống EPR được đưa ra với tỷ lệ đồng ý từ 51,6 đến 71%.

Tuy nhiên có một số nội dung chính tác động đến tính khả thi khi triển khai EPR tại các doanh nghiệp, bao gồm:

Quy định về tỷ lệ tái chế bắt buộc: Việc quy định tỷ lệ tái chế bắt buộc là rất khó vì tỷ lệ tái chế phụ thuộc rất nhiều yếu tố, khác nhau đối với từng loại thiết bị, từng loại bao bì, từng loại vật liệu làm ra bao bì, phụ thuộc vào thị trường tái chế, công nghệ tái chế, vì vậy không dễ dàng gì để áp dụng thực tế. Nhà nước nên ban hành các hướng dẫn cụ thể cho các loại hình doanh nghiệp về tỷ lệ tái chế bắt buộc. Để đảm bảo tính khả thi của EPR, Nhà nước nên xây dựng lộ trình cho tỷ lệ tái chế bắt buộc, và tăng dần từng năm cho đến khi đạt được tỷ lệ tái chế cần thiết.

Xác định mức đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam: Do việc tính toán xác định định mức chi phí tái chế bắt buộc khá khó khăn, đặc biệt với các doanh nghiệp sử dụng kết hợp các loại hình, nên việc tính toán số tiền đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam của từng loại sản phẩm, bao bì cũng sẽ rất khó khăn và có thể không phù hợp với các doanh nghiệp ở các phân khúc khác nhau.

Tồn tại hai hình thức hoạt động tái chế: Tái chế phi chính thống tại các làng nghề và tái chế chính thống sẽ gây khó khăn cho việc triển khai trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Các doanh nghiệp tái chế chính thống gặp nhiều khó khăn trong việc thu mua nhựa phế liệu, dẫn đến chi phí tái chế cao hơn, và vì thế khó cạnh tranh về giá thành sản phẩm.

Giới hạn quy định về đối tượng thực hiện trách nhiệm EPR: Đa số các doanh nghiệp có các ý kiến tiêu cực hoặc có lựa chọn tiêu cực về thực hiện EPR là các doanh nghiệp nhỏ, vốn sản xuất thấp, mức độ cạnh tranh cao nên bất kỳ một chi phí nào đều có khả năng đẩy doanh nghiệp vào tình thế khó khăn trong sản xuất. Quy định về ngưỡng thực hiện (doanh thu 30-100 tỷ tùy thuộc nhóm sản phẩm bao bì hoặc lượng nhập khẩu) được hiểu chung là với doanh thu dưới ngưỡng thực hiện thì sẽ không phải áp dụng EPR và vì vậy có nhiều doanh nghiệp không thực sự quan tâm đến.

Mặc dù kết quả khảo sát về mức độ tham gia EPR của doanh nghiệp SMEs không tập trung và chưa thể hiện rõ ràng để kết luận là các doanh nghiệp đều sẵn sàng cho việc triển khai áp dụng EPR. Nhưng kết quả khảo sát cho thấy, 48,4% doanh nghiệp đã đồng thuận về việc áp dụng EPR (trong đó bao gồm 35,5% doanh nghiệp được khảo sát đã sẵn sàng cho việc triển khai áp dụng EPR và 12,9% doanh nghiệp đã triển khai thực hiện EPR ở các mức độ khác nhau). Tỷ lệ số doanh nghiệp cần suy nghĩ thêm là 25,8%  có thể sẽ có nhận thức tích cực hơn và chuyển sang ý kiến đồng thuận nếu các vấn đề khó khăn và vướng mắc được đề cập và phân tích ở trên được giải quyết.

PV: Vậy, với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì quy định EPR đang là áp lực về kinh tế, vậy ông có đưa ra giải pháp gì để đảm bảo sự sẵn sàng tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong triển khai EPR?

TS. Nguyễn Đức Quảng: tôi có đề xuất một số giải pháp sau:

Điều chỉnh các quy định của Nghị định nhằm đảm bảo tính khả thi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs): Phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng công thức tính tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế theo quy định của Dự thảo Nghị định là chưa phù hợp đối với doanh nghiệp SMEs. Kết quả khảo sát sẽ là đầu vào tham khảo để điều chỉnh các quy định trong Dự thảo Nghị định nhằm đảm bảo tính khả thi khi triển khai đến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp SMEs. Đối với tỉ lệ tái chế, cân nhắc áp dụng tỉ lệ % thay bằng áp dụng công thức tái chế hoặc tạm thời bỏ qua trong giai đoan này. Giai đoạn đầu nên áp dụng tỉ lệ thấp và điều chỉnh tỉ lệ này căn cứ vào tình hình thực tế.

Đảm bảo việc áp dụng EPR không tạo nên rào cản cho doanh nghiệp trong việc tăng chi phí sản xuất, giảm cạnh tranh: Kết quả khảo sát cho thấy, nhiều doanh nghiệp lo ngại về mức đóng phí sẽ tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và mức phí đề xuất chưa phù hợp. Đảm bảo việc xác định mức phí phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp triển khai đầy đủ nghĩa vụ trong thời gian tới.

Xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị: Trách nhiệm của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nhựa (doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, doanh nghiệp tiêu dùng sản phẩm và người sử dụng sản phẩm) cần xác định rõ nhằm đảm bảo công bằng khi thực hiện trách nhiệm tái chế, xử lý chất thải. Ví dụ, tại thời điểm hiện tại, khi các phế liệu đang được thu gom bởi hệ thống thu gom và tái chế tư nhân, thì chi phí thu gom không nên được tính cả giá mua phế liệu, mà nếu có, chỉ nên tính cho các chi phí nhân công, khấu hao trang thiết bị cho hoạt động thu gom.

Phổ biến các quy định về EPR cho doanh nghiệp SMEs: Kết quả khảo sát cho thấy, mặc dù các doanh nghiệp nhận thức được các quy định của Điều 54 và Điều 55 của Luật BVMT năm 2020 nhưng các quy định cụ thể liên quan đến tỷ lệ tái chế bắt buộc, quy cách tái chế bắt buộc, đóng góp vào Quỹ BVMT Việt Nam… vẫn chưa được doanh nghiệp nhận thức đầy đủ. Do đó, để đảm bảo việc triển khai hiệu quả trong thời gian tới, Bộ TN&MT cần có các hình thức truyền thông phù hợp để đảm bảo hiểu đúng các quy định về EPR.

Hồng Minh (thực hiện)

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Đảng bộ Cục Đo đạc, bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam: Tổ chức thành công Đại hội điểm nhiệm kỳ 2025 - 2030

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Nhận diện bức tranh về thiên tai, bão lũ và bài toán ứng phó, giảm thiểu

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Lễ ra mắt Hội Doanh nhân họ Vũ - Võ TP. Hà Nội: Cột mốc kết nối, phát triển, lan tỏa giá trị dòng họ

Bắc Ninh tăng tốc chuyển đổi số, khơi thông nguồn lực trong khoa học công nghệ

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Diễn đàn

Hà Nội: Trồng nho sữa kết hợp với du lịch trải nghiệm

Thời tiết ngày 15/5: Miền Bắc bắt đầu chuỗi ngày mưa lớn cục bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 14/5: Miền Bắc ngày nắng, chiều tối mưa dông, vùng núi cục bộ có nơi mưa to

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông