Giám đốc Nguyễn Văn Minh: Ngành Khí tượng thủy văn Thanh Hóa gặp nhiều thách thức do biến đổi khí hậu

28/10/2024

TN&MTTrong những năm qua, diễn biến thời tiết bất thường có chiều hướng gia tăng cả về cường độ lẫn tần suất đã gây ra không ít khó khăn cho công tác dự báo, cảnh báo của ngành Khí tượng thủy văn (KTTV). Để nâng cao chất lượng dự báo, bên cạnh việc xây dựng hệ thống hỗ trợ dự báo thông minh, ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại, tiên tiến,...còn cần có cơ chế chính sách đặc thù, thu hút thế hệ trẻ kế cận có trình độ chuyên môn, bản lĩnh và yêu nghề. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, Phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Minh, Giám đốc Đài KTTV tỉnh Thanh Hóa.

PV: Thưa ông, ông đánh giá thế nào về diễn biến, xu hướng thời tiết trong những năm gần đây tại nước ta nói chung và địa phương Thanh Hóa nói riêng?

Ông Nguyễn Văn Minh:

Việt Nam có bờ biển dài, có địa hình đa dạng và nằm trong vùng giao tranh của các hệ thống gió mùa lớn nên thường xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, áp thấp nhiệt đới, rét hại, nắng nóng, khô hạn dài ngày, mưa lớn, lũ lớn. Xu thế thời tiết chung trong những năm gần đây có thể nói là bất lợi, hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra ngày càng nhiều và có chiều hướng gia tăng cả về cường độ lẫn tần suất, đặc biệt yếu tố bất thường, không theo quy luật và cực kỳ nguy hiểm. Điển hình nhất phải kể đến là nền nhiệt độ trung bình mỗi năm đều có xu hướng tăng, một số nơi có nền nhiệt độ đo được cao kỷ lục, chưa từng thấy trong lịch sử. Nắng nóng gay gắt kéo dài với nền nhiệt độ cao, cộng với bức xạ từ mặt trời đã ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe và hoạt động sản xuất sinh sống của người dân, kéo theo nhiều hệ lụy khác.


Ông Nguyễn Văn Minh, Giám đốc Đài KTTV tỉnh Thanh Hóa

Về bão, theo đánh giá của các nhà chuyên môn chưa có dữ liệu nói về tần suất bão tăng hay giảm nhưng có dấu hiệu cho thấy, sự gia tăng các cơn bão có cường độ mạnh. Các yếu tố như sức gió, hướng đi và lượng mưa kéo đều có tính bất thường và khó lường. Ví dụ như cơn bão số 3 (Yagi) vừa qua có những điểm đặc biệt, kỉ lục, bất thường. Đây là siêu bão đầu tiên trên Biển Đông được cơ quan KTTV Việt Nam ghi nhận, dự báo từ khi Việt Nam có phân định cấp siêu bão năm 2014. Trước đây, chúng ta chỉ chia cấp siêu bão đến cấp 12 nên cấp độ đo chỉ đến cấp 12 thôi. Từ 2014, chúng ta có thể đo đạc được siêu bão từ cấp 16 trở lên.

Đây là cơn bão có hoàn lưu rộng nhất mà chúng tôi ghi nhận được từ trước đến nay. Gió mạnh cấp 13-14, giật cấp 17 tại Bãi Cháy là sức gió mạnh nhất từng ghi nhận được trên đất liền nước ta. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm là trước đây chúng ta chỉ xác định đến cấp 12, giật trên cấp 12. Phạm vi ảnh hưởng của bão và gió mạnh, gió giật mạnh (cấp 8 trở lên) là rộng nhất từ trước đến nay khi hầu. hết các tỉnh ở Đông Bắc Bộ và Thanh Hóa.

Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay mà chúng ta đo đạc, quan trắc được. Ngoài ra, dù đây là cơn bão không có lượng mưa nhiều nhất nhưng nhiều nơi có miền núi phía Bắc đã trải qua tháng 8 với nhiều ngày mưa lớn, dẫn đến sạt lở đất rất nghiêm trọng.

Một hình thái thời tiết nữa cũng đang cho thấy mức độ gia tăng và khó lường đó là mưa lớn cục độ, gây nhiều khó khăn trong công tác dự báo. Tại Thanh Hóa đã từng ghi nhận vào năm 2017 gây lũ lớn cho sông Chu, năm 2018 gây lũ lớn cho lưu vực sông Mã, khu vực trung du. Đặc biệt là vào năm 2019, mưa lớn cực bộ đã gây ra lũ quét tại bản Sa Ná, gây nhiều mất mát đau thương.


Hệ thống quan trắc 

Từ nay đến cuối năm, khu vực Bắc Trung Bộ và điển hình là Thanh Hóa sẽ chuẩn bị các hình thái thời tiết của mùa đông và chịu ảnh hưởng của không khí lạnh là chủ yếu. Các hình thái kết hợp như hội tự gió, mưa lớn. Theo dự báo, nền nhiệt và lượng mưa tại mùa đông năm nay sẽ xấp xỉ so với mọi năm trước, không có nhiều biến động. Tần suất khoảng 1 tuần sẽ có một đợi không khí lạnh và đợt không khí lạnh mạnh đầu tiên nhiều khả năng sẽ tới vào trung tuần tháng 12. Nguy cơ về thiếu nước sẽ không cao do lượng trữ nước tại hồ chứa lớn là còn nhiều, nếu sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, sẽ cung cấp đủ cho các hoạt động tưới tiêu.

PV: Những thuận lợi và khó khăn mà ngành Khí tượng thủy văn địa phương đang phải đối mặt là gì, thưa ông ?

Ông Nguyễn Văn Minh:

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công việc, ngành KTTV văn nói chung và Đài KTTV tỉnh Thanh Hóa nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng nhà nước, của các Bộ, Ngành, địa phương, người dân. Đặc biệt là ngày 25/9/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KTTV đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đây là lần đầu tiên Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về công tác KTTV thể hiện tầm quan trọng của công tác KTTV trong tình hình mới.

Ngoài ra, nguồn nhân lực của ngành tương đối dồi dào, các cán bộ đều được đào tạo cơ bản, tinh thần yêu nghề cao. Bên cạnh đó, những năm gần đây ngành KTTV đã được tiếp cận và ứng dụng được nhiều tiến bộ KHKT trong đó phải kể đến như hệ thống quan trắc ngày càng bổ sung, hiện đại tiên tiến, các sản phẩm dự báo có độ chính xác, độ tin cậy ngày càng cao. Hệ thống siêu máy tính CrayXC40 đã được sử dụng, xây dựng các cơ sở dữ liệu đồng bộ, mạng lưới quan trắc, các trạm đo mưa đã tự động hóa 80-90%, đáp ứng được công tác dự báo như Thanh Hóa đã có khoảng 108 trạm đo mưa tự động.


Biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều khó khăn cho ngành KTTV

Bên cạnh những mặt thuận lợi, Giám đốc Đài KTTV Thanh Hóa cũng đề cập một số khó khăn, thách thức của ngành, ông cho rằng: KTTV là ngành khoa học, có tính đặc thù cao: Thường xuyên, liên tục (không kể mưa gió,ngày, đêm, ngày lễ tết..), độ chính xác cao; có nhiều tình huống nguy hiểm (phải đo đạc khi có mưa lũ lớn, dông, lốc, sét…);

Biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, trái quy luật đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho công tác KTTV. Việc dự báo, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất, mưa đá vẫn còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu các thông tin số liệu nền về: đo đạc, điều tra, khảo sát thực địa của các vùng có nguy cơ phát sinh lũ quét, sạt lở đất thường không có; về thảm phủ, cấu trúc địa chất, lớp vỏ phong hóa, mức độ bão hòa trong đất... không đủ độ chi tiết, không được cập nhật thực tế; sự tác động của con người hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phá rừng, khai thác khoáng sản chưa được thống kê nghiên cứu đầy đủ. Bên cạnh đó, lũ quét thường xảy ra ở quy mô nhỏ, liên tiếp, mang tính địa phương. Vì vậy, chỉ cảnh báo ở cấp trung ương là không thể đảm bảo kịp thời cho hoạt động phòng chống lũ quét, sạt lở đất nếu như không có sự phối hợp chặt chẽ của địa phương. Mặt khác, khoa học công nghệ hiện nay chưa cho phép dự báo, cảnh báo chính xác mưa định lượng và nhận biết sự biến đổi của các nhân tố là nguyên nhân tác động, gây ra lũ quét sạt lở đất. Thực tế đã cho thấy, kể cả khi dự báo chính xác và chi tiết được lượng mưa) thì vẫn chưa đủ để có thể dự báo chính xác được lũ quét và sạt lở đất, nếu thiếu và chưa xác định kịp thời được các thông tin chi tiết nền như đã nêu ở trên.

Dự báo, cảnh báo mưa lớn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là đối với các trường hợp mưa lớn kỷ lục, cục bộ và ở những nơi ít thông tin quan trắc như vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên. Dự báo lũ, đặc biệt là lũ trên các sông ở khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên với thời gian tập trung nước nhanh nhưng công nghệ dự báo cực ngắn chưa được đầu tư xây dựng thỏa đáng.

Hạn chế về khoa học công nghệ của cả hệ thống quan trắc, hệ thống thông tin và xử lý số liệu, phân tích dự báo, cảnh báo KTTV. Các thông tin, số liệu về vận hành hồ chứa chưa được đồng bộ hóa cùng hệ thống số liệu KTTV. Mạng lưới quan trắc phục vụ dự báo, cảnh báo KTTV còn thưa, phần lớn chưa thực hiện tự động nên không đáp ứng được yêu cầu số liệu đầu vào của các mô hình dự báo, đặc biệt là các mô hình số trị.


Ngành KTTV là ngành nghề đặc thù

Tại Thanh Hóa, đây là địa phương có nhiều dạng thiên tai nguồn gốc KTTV (có đủ 19 loại thiên tai KTTV): ATNĐ, Bão, mưa lớn, lũ, lụt, lũ quét, sạt lở đất, sụt lún đất, nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn, gió mạnh, sương mù, nước dâng, lốc, sét ,mưa đá, rét hại, sương muối. Do đó thiên tai cực đoan, bất thường, nguy hiểm ngày càng gia tăng, khó lường gây ra khó dự báo về Bão mạnh, mưa lũ lớn, lũ quét, sạt lở đất đá….

Ngoài ra, Thanh Hoá có mạng lưới sông ngòi dày đặc, có sông nội tỉnh, liên tỉnh, sông xuyên biên giới; phân bố trên các địa hình đa dạng, phức tạp; nhiều vùng không có số liệu quan trắc, nhất là đầu nguồn sông Mã, sông Chu phía Lào. Mạng trạm nhiều, phân tán trên địa bàn rộng, nhiều trạm vùng núi: Môi trường làm việc khó khăn (giao thông, xa trung tâm), thiếu thốn (điện, nước, văn hoá xã hộ), tiềm ẩn nhiều nguy cơ (sốt rét, rắn rết, thiên tai mưa lũ, sạt lở đất đá ở miền núi). Có nhiều trạm thuỷ văn chịu ảnh hưởng của hồ chứa nên đo đạc với tần suất cao hơn, kể cả trong mùa cạn; máy móc thiết bị quan trắc tự động hay hư hỏng do tác động của môi trường; cán bộ viên chức chủ yếu làm chuyên môn, thu nhập từ lương, đời sống khó khăn; KTVT là ngành nghề đặc thù vất vả, không có ngày nghỉ lễ Tết, luôn phải thực hiện nhiệm vụ 24/24 song thu nhập không cao do đó không thu hút được thế hệ trẻ, lớp kế cận. Đây cũng là một trong những vấn đề nan giải đối với ngành.

PV: Vậy để khắc phục những khó khăn, thách thức, ngành KTTV cần thực hiện các giải pháp gì để nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo, qua đó góp phần hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra, thưa ông ?

Ông Nguyễn Văn Minh:

Để nâng cao năng lực và chất lượng cảnh báo, dự báo KTTV, trước hết chúng ta cần bám sát Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành 25/9/2021 về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KTTV đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".


Các cán bộ KTTV đối mặt với nhiều vất vả, nguy hiểm

Đồng thời, xây dựng hệ thống hỗ trợ dự báo khí tượng thông minh; hệ thống dự báo dựa trên tác động; hệ thống truyền tin cảnh báo thiên tai; hệ thống chuyên dụng phân tích và dự báo bão, áp thấp nhiệt đới, hệ thống giám sát dự báo chất lượng môi trường không khí.

Phát triển hệ thống dự báo mô hình số trị có đồng hóa các loại số liệu bề mặt và viễn thám, tập trung nâng cao dự báo định lượng mưa ở các thời hạn dựbáo từ cực ngắn đến dự báo dài; xây dựng, cập nhật bộ số liệu chuẩn khí hậu quốc gia và giám sát biến đổi khí hậu; tăng các dự báo sớm, dài hạn diễn biến khí hậu quy mô mùa đến 1 năm. Đánh giá tổng thể rủi ro thiên tai, đa thiên tai, phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn, nắng nóng; hệ thống giám sát và cảnh báo lũ quét, sạt lở đất thời gian thực cho các khu vực vùng núi, trung du trên toàn quốc, chi tiết đến cấp huyện; công nghệ dự báo, cảnh báo sạt lở đất thời gian thực cho cụm dân cư, khu vực cụ thể có nguy cơ cao sạt lở đất. Tích hợp các mô hình dự báo thủy văn trên các lưu vực sông lên hệ thống hỗ trợ dự báo “Phát triển hệ thống phần mềm phục vụ tích hợp dữ liệu và hỗ trợ dự báo thời tiết”.


Cần có giải pháp để nâng cao chất lượng cảnh báo, dự báo

Xây dựng công nghệ cảnh báo ngập lụt đô thị, khu công nghiệp trọng điểm, ưu tiên cho khu vực đô thị lớn; công cụ cảnh báo, dự báo chi tiết phạm vi ngập lụt, độ sâu ngập lụt vùng hạ lưu các lưu vực sông và hồ chứa; công nghệ hiện đại dự báo sóng, dòng chảy, nước dâng do bão và ngập lụt ven bờ, triều cường, lan truyền chất ô nhiễm và vật thể trôi chi tiết cho các đảo, vùng ven bờ biển, cửa sông và tuyến hàng hải; triển khai xây dựng hệ thống dự báo thời tiết, khí tượng theo thời gian thực đảm bảo vận hành, điều hành hệ thống cung cấp điện linh hoạt, ổn định và an toàn.

Xây dựng và triển khai hệ thống tài nguyên số về KTTV, dịch vụ thời tiết qua hệ thống truyền hình, web, apps, bao gồm thông tin quan trắc, dự báo phục vụ các ngành, lĩnh vực khai thác, sử dụng; nền tảng quản lý và phân tích dữ liệu lĩnh vực khí KTTV.

Ngoài những nỗ lực trên của ngành, thì một yếu tố quan trọng khác cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công của công tác dự báo, cảnh báo sớm thiên tai đó là cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành KTTV với cơ quan chúc năng, chính quyền địa phương, cơ quan truyền thông và người dân. Phải thông tin một cách sâu rộng, nhanh chóng, có sức lan tỏa cao, từ đó mới đề ra được các phương án phòng chống thiên tai hiệu quả nhất.

PV: Xin cảm ơn ông !

Hoàng Anh (Thực hiện)

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Đảng bộ Cục Đo đạc, bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam: Tổ chức thành công Đại hội điểm nhiệm kỳ 2025 - 2030

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Nhận diện bức tranh về thiên tai, bão lũ và bài toán ứng phó, giảm thiểu

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Lễ ra mắt Hội Doanh nhân họ Vũ - Võ TP. Hà Nội: Cột mốc kết nối, phát triển, lan tỏa giá trị dòng họ

Bắc Ninh tăng tốc chuyển đổi số, khơi thông nguồn lực trong khoa học công nghệ

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Diễn đàn

Hà Nội: Trồng nho sữa kết hợp với du lịch trải nghiệm

Thời tiết ngày 15/5: Miền Bắc bắt đầu chuỗi ngày mưa lớn cục bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 14/5: Miền Bắc ngày nắng, chiều tối mưa dông, vùng núi cục bộ có nơi mưa to

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông