Hoàn thiện quy định về hoà giải tranh chấp đất đai

04/07/2023

TN&MTDự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã có thay đổi, bổ sung nhiều điểm mới về việc hoà giải tranh chấp đất đai, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc cần hoàn thiện.

Hoàn thiện quy định về hoà giải tranh chấp đất đai

Ảnh minh họa

Dự thảo Luật Đất đai đã thêm phương thức hoà giải tại Toà án, tại khoản 1 Điều 224 quy định “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở hoặc hòa giải tại Tòa án.”. So với Luật Đất Đai năm 2013 thì dự thảo đã cho phép các bên tranh chấp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hoà giải tại Toà án. Đây là điểm mới giúp các bên có nhiều lựa chọn đồng thời đem lại hiệu quả, nhanh chóng và tiết kiệm thời gian.

Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/ NQ- HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định “tranh chấp ai là người có QSDĐ” mà chưa được hoà giải tại UBND xã, phường, thị trấn (UBND cấp xã) nơi có đất tranh chấp thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Đối với tranh chấp khác liên quan đến QSDĐ như: Tranh chấp về giao dịch liên quan đến QSDĐ, tranh chấp về thừa kế QSDĐ, chia tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ,... thì thủ tục hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án. Do đó, tranh chấp “ai là người có QSDĐ” là loại tranh chấp bắt buộc phải hoà giải tại UBND cấp xã trước khi Toà án thụ lý để giải quyết.

Việc hoà giải tại UBND cấp xã được tiến hành bởi Hội đồng hoà giải do Chủ tịch UBND cấp xã thành lập và tổ chức, tuy nhiên tại điểm b khoản 2 Điều 224 dự thảo quy định “Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với UBMTTQ Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác…”. Cụm từ các tổ chức xã hội khác hiện nay chưa được quy định và giải thích rõ ràng dẫn đến khi tổ chức hoà giải gây ra sự lúng túng trong lựa chọn người đại diện tham dự hoà giải. Bên cạnh đó, cần ban hành văn bản QPPL giải thích thế nào là “các tổ chức xã hội khác”, trình tự, thành phần tham dự hoà giải đồng thời quy định trách nhiệm pháp lý đối với hội đồng hoà giải.

Tại điểm b khoản 2 Điều 224 dự thảo Luật Đất đai thêm vào cụm từ “Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với UBMTTQ Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, độc lập, vô tư, khách quan, trung thực…”

Cần ban hành hướng dẫn về biên bản hoà giải trong các trường hợp nào là hoà giải thành hoặc không thành số lần được ghi nhận với trường hợp hoà giải không thành và quy chế pháp lý đối với biên bản trong giai đoạn khởi kiện ra Toà án.

Khoản 1 Điều 224 dự thảo Luật quy định: “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở hoặc hòa giải tại Tòa án”.

Theo quy định này, thì việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải không phải là cơ chế bắt buộc trước khi Tòa án xem xét giải quyết tranh chấp đất đai. Việc này sẽ làm gia tăng số lượng vụ việc tranh chấp đất đai mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết. Vì vậy, cần đánh giá toàn diện quy định này, đồng thời phải có sự kế thừa Luật Đất đai năm 2013; theo đó, việc thực hiện thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở (có biên bản hòa giải không thành) là điều kiện bắt buộc để Tòa án giải quyết tranh chấp đất đai.

Khoản 1 Điều 224 dự thảo Luật quy định: “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở hoặc hòa giải tại Tòa án.”. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định:

“Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này.

Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố)”. Như vậy, việc hòa giải ở cơ sở theo quy định Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 là hòa giải ở thôn, tổ dân phố. Vậy thì, việc hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã theo quy định tại khoản 2 Điều 224 dự thảo Luật có phải là hòa giải ở cơ sở hay không? Do đó, cần làm rõ quy định này theo hướng:

Nếu hòa giải cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 thì khoản 1 Điều 224 dự thảo Luật đề nghị biên tập lại như sau: “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở hoặc hòa giải tại Tòa án. Nếu hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã là hòa giải ở cơ sở thì đề nghị quy định rõ như sau: “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải tại UBND cấp xã hoặc hòa giải tại Tòa án”.

Khoản 4 Điều 224 dự thảo Luật quy định:

 “4. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người SDĐ thì UBND cấp xã, TAND gửi biên bản hòa giải đến Phòng TN&MT đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở TN&MT đối với các trường hợp khác.

Phòng TN&MT, Sở TN&MT trình UBND cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới GCN”.

Tuy nhiên, trong trường hợp các bên tự hòa giải thành (không hòa giải ở UBND cấp xã hoặc hòa giải tại Tòa án), tức là các bên tự ngồi lại với nhau để tự hòa giải nhưng có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người SDĐ thì trong trường hợp này xử lý như thế nào? Kết quả các bên tự hòa giải thành phải xử lý như thế nào? Đây là vấn đề pháp lý đặt ra và nên quy định rõ trong Điều 224 dự thảo Luật. Theo chúng tôi, để xử lý trường hợp này cần phải quy định theo hướng: “Trường hợp các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người SDĐ thì các bên phải lập thành biên bản gửi UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để xác nhận. UBND cấp xã kiểm tra, xác nhận kết quả tự hòa giải thành và gửi biên bản hòa giải đến Phòng TN&MT đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở TN&MT đối với các trường hợp khác. Phòng TN&MT, Sở TN&MT trình UBND cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới GCN”.

Khoản 3 Điều 224 dự thảo Luật quy định: “3. Hòa giải tranh chấp đất đai tại TAND được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án.”. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 225 dự thảo Luật quy định:” 1. Tranh chấp đất đai, tranh chấp đất đai và tài sản gắn liền với đất do TAND giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. UBND các cấp có trách nhiệm cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc quản lý, SDĐ để làm căn cứ cho TAND giải quyết theo thẩm quyền khi được yêu cầu.”.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”.

Theo quy định trên, trong trường hợp các bên tranh chấp đất đai muốn hòa giải thông qua Tòa án (theo quy định tại khoản 1 Điều 224 dự thảo Luật) thì trình tự, thủ tục thực hiện như thế nào? Quy định này có mâu thuẫn, trùng lắp với khoản 1 Điều 205 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hay không?

Nếu các bên tranh chấp đất đai lựa chọn hòa giải tại Tòa án nhưng hòa giải không thành, khi đó các bên tranh chấp nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự thì Tòa án có tiếp tục hòa giải hay không? Hay căn cứ vào biên bản hòa giải không thành để xét xử tranh chấp đất đai mà không cần phải tiếp tục hòa giải thì có vi phạm thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hay không?

Tóm lại, so với Luật Đất đai năm 2013 thì dự thảo Luật cơ bản đã làm rõ các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế và các quy định pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, quy định hòa giải tranh chấp đất đai theo Điều 224 dự thảo Luật vẫn còn một số nội dung nêu trên cần phải được làm rõ và hoàn thiện để góp phần hạn chế thấp nhất những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành Luật.

TS. NGUYỄN VĂN TÚ

Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam

Nguồn: Tạp chí TN&MT số 11+12 năm 2023

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Phó Thủ tướng yêu cầu Thanh Hóa vận hành thông suốt chính quyền 2 cấp

Đắk Lắk: Công bố Nghị quyết, Quyết định của Trung ương và địa phương sáp nhập các đơn vị hành chính

Cả nước có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh

Lễ công bố thành lập TP. Hồ Chí Minh mới

Nông nghiệp

Từ Biên bản ghi nhớ đến hành động: Lâm Đồng phát triển công nghệ sinh học nông nghiệp

Tôi là phóng viên OCOP: Hành trình trọn vẹn đam mê và truyền lửa

Lâm Hà công nhận 56 sản phẩm OCOP

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Tài nguyên

Vì sao Thanh Hóa giàu tài nguyên nhưng vẫn khan hiếm vật liệu xây dựng?

Thẩm định các đề án thăm dò khoáng sản tại hai địa phương

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Môi trường

Gỡ khó trong thực thi chính sách bảo vệ rừng

Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng bền vững tại Thái Nguyên

Lạng Sơn đón nhận Danh hiệu Công viên địa chất toàn cầu UNESCO

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Bà Rịa - Vũng Tàu: Nhiều bất cập không được thống nhất tại buổi tiếp công dân

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Thời tiết ngày 29/6: Bắc Bộ cục bộ mưa rất to, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt