Khi kháng sinh mất tác dụng: Nông nghiệp Việt đối mặt hiểm họa kháng thuốc

19/06/2025

TN&MTTừng được xem là “lá chắn” bảo vệ đàn vật nuôi và thủy sản khỏi dịch bệnh, nhưng nay kháng sinh đang dần trở thành “con dao hai lưỡi” khi bị lạm dụng quá mức, sai cách. Hệ quả là tình trạng kháng thuốc ngày càng lan rộng, đe dọa không chỉ ngành nông nghiệp mà cả sức khỏe cộng đồng và môi trường. Khi kháng sinh mất tác dụng, nông nghiệp Việt sẽ đứng ở đâu? Và chúng ta phải làm gì để ngăn thảm họa trong tương lai không quá xa?.

Vòng tuần hoàn khi lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi. Nguồn ảnh: Thiên Nguyên

Khi kháng sinh không còn là “phao cứu sinh” trong chăn nuôi
Trời mới tờ mờ sáng, mùi cám mới và tiếng máy phát cám đã rền vang ở một trang trại nuôi heo quy mô gần 500 con ở huyện Trảng Bom (Đồng Nai) - nơi từng được xem là “điểm nóng” của tình trạng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi công nghiệp. Chủ trại, anh Lê Minh không khỏi trăn trở khi nhìn lại gần 15 năm làm nghề. “Có giai đoạn, tôi gần như lệ thuộc vào kháng sinh. Cứ mỗi đợt thay đổi thời tiết hay có con ho, con sốt là cả đàn được “uống thuốc” trong cám suốt cả tuần. Không ai nói mình sai, vì hầu hết các hộ khác cũng làm vậy.”

Thế nhưng vài năm trở lại đây, tình hình thay đổi. Anh Minh bắt đầu chứng kiến những dấu hiệu rõ rệt: heo chậm lớn, tái phát bệnh nhanh hơn dù đã dùng kháng sinh, thậm chí có lứa tỷ lệ chết tăng dù đã “dùng thuốc mạnh”. Điều khiến anh sửng sốt hơn là có những loại thuốc từng dùng hiệu quả giờ gần như vô tác dụng”.

“Tôi bắt đầu nghi ngờ: có phải mình đang đối mặt với kháng kháng sinh? Lúc đó mới tìm hiểu, mới biết đó là hệ quả của thói quen lạm dụng thuốc bao năm nay,” anh Minh nói!.

Sau nhiều đắn đo, anh quyết định chuyển hướng. Từ một trại nuôi “phủ kháng sinh”, anh đầu tư lại chuồng trại theo hướng an toàn sinh học, áp dụng tiêm vaccine định kỳ, bổ sung men vi sinh, hạn chế tối đa việc dùng kháng sinh và chỉ sử dụng khi có kê đơn của bác sĩ thú y. Dù chi phí đầu tư ban đầu tăng, nhưng lợi ích dần hiện rõ: Heo khỏe hơn, chi phí thuốc giảm, sản phẩm bán được giá cao hơn nhờ đạt yêu cầu kiểm tra tồn dư kháng sinh của các doanh nghiệp thu mua.

“Tôi không ngờ mình từng là một phần của vấn đề. Nhưng may là còn kịp thay đổi. Nhiều hộ khác vẫn đang làm theo lối cũ, cứ nghĩ kháng sinh là cứu cánh, nhưng không biết rằng đó là “con dao hai lưỡi”, anh Minh chia sẻ!.

Câu chuyện của anh Minh không phải là cá biệt. Tại nhiều vùng nuôi khác ở Đồng Nai, Bình Dương, Hưng Yên, thói quen “phòng bệnh bằng kháng sinh”, “cứ bệnh là cho cả đàn uống thuốc” vẫn tồn tại phổ biến, thậm chí như một quy trình bất thành văn. Trong khi đó, các loại kháng sinh được bán lẻ rộng rãi, dễ tiếp cận mà thiếu kiểm soát. Kết quả là một số dòng vi khuẩn gây bệnh cho vật nuôi đã kháng thuốc mạnh mẽ, buộc người chăn nuôi phải tăng liều, dùng thuốc thế hệ mới, đắt đỏ và không phải lúc nào cũng có sẵn.

Điều nguy hiểm hơn, theo các chuyên gia, là những vi khuẩn kháng thuốc này không chỉ ảnh hưởng đến đàn heo mà còn có thể truyền sang người thông qua thịt nhiễm tồn dư, chất thải chăn nuôi hoặc nguồn nước bị ô nhiễm, góp phần lan rộng gene kháng thuốc trong cộng đồng.

Một cán bộ thú y tại địa phương cảnh báo: “Nhiều hộ chưa thấy rõ mối nguy, nhưng khi kháng sinh mất tác dụng, cả đàn vật nuôi sẽ không còn cách cứu chữa. Mà kháng sinh một khi đã kháng, gần như không lấy lại được.”

Không chỉ ở trại heo, những ao nuôi tôm, nuôi cá, đặc biệt tại các vùng trọng điểm như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau,… cũng đang phát đi những tín hiệu báo động về tình trạng lạm dụng kháng sinh. Vấn đề không chỉ nằm ở kháng sinh trong sản phẩm, mà còn ở môi trường ao nuôi đang tích tụ kháng sinh theo thời gian. Nhiều nghiên cứu chỉ ra: trong trầm tích đáy ao, các gene kháng thuốc có thể tồn tại hàng tháng, thậm chí hàng năm tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng thuốc sinh sôi, truyền qua dòng chảy hoặc lan vào hệ sinh thái nước ngọt ven biển.

Đó không chỉ là câu chuyện của một hộ nuôi mà là tín hiệu từ thực tiễn cho thấy, kháng sinh, vũ khí chủ lực trong chăn nuôi đang dần mất tác dụng, và nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với hiểm họa kháng thuốc.

Sử dụng kháng sinh tràn lan, gây hiểm hoạ cho sức khoẻ cộng đồng. Nguồn ảnh: Thiên Nguyên

Hiểm họa không tiếng nổ , “bóng ma” kháng thuốc đang lan rộng

Không ồn ào như đại dịch covid- 19, không gây chấn động như một vụ xâm nhập sinh học nhưng kháng kháng sinh lại đang là mối đe dọa y tế và nông nghiệp toàn cầu được Tổ chức Y tế Thế giới xếp vào nhóm nghiêm trọng nhất của thế kỷ 21. Nó là một “bóng ma” không nhìn thấy được bằng mắt thường, nhưng từng ngày, từng giờ len lỏi qua những máng cám, ao nuôi, bãi thải và cả bữa cơm gia đình. Và tại Việt Nam, quá trình đó đang diễn ra một cách âm thầm nhưng không kém phần nguy hiểm.

Tại nhiều vùng nông nghiệp trọng điểm, việc sử dụng kháng sinh đang trở nên phổ biến đến mức,… bình thường hóa. Thuốc được trộn vào cám, đổ xuống ao, pha vào nước uống mà không qua bất kỳ chỉ định thú y nào. Nhiều hộ vẫn coi đó là “quy trình” truyền miệng  một loại bảo hiểm cho rủi ro dịch bệnh, không lường trước rằng vi khuẩn cũng đang tiến hóa từng ngày, âm thầm phát triển khả năng kháng lại mọi loại thuốc mà con người từng tin dùng.

Sự nguy hiểm của kháng thuốc nằm ở chỗ: nó không bộc phát ngay, nhưng một khi đã xảy ra thì không thể quay lại. Một loại kháng sinh mất hiệu lực là mất vĩnh viễn. Và đáng sợ hơn cả, những gene kháng thuốc không ở yên trong đàn gia súc hay dưới ao tôm chúng lưu trú trong môi trường, phát tán qua nguồn nước, đất, thậm chí lây truyền giữa vi khuẩn qua vật trung gian.

Một nghiên cứu của ngành môi trường từng chỉ ra: có tới 30-60% mẫu bùn đáy tại các ao nuôi tôm công nghiệp chứa gene kháng thuốc, nhiều trong số đó thuộc nhóm nguy cơ cao với con người. Nghĩa là, không chỉ vật nuôi nhiễm bệnh khó cứu, mà chính con người khi tiếp xúc hoặc tiêu thụ thực phẩm cũng đang bị đặt vào vùng rủi ro.

Tại cuộc họp xây dựng dự thảo Đề án giám sát kháng thuốc trong môi trường giai đoạn 2025 - 2030 do Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chủ trì đã cho thấy, hiện tượng kháng thuốc không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị bệnh trên vật nuôi mà còn đe dọa sức khỏe con người thông qua chuỗi thực phẩm và môi trường. Từ trại gà, ao tôm, đến nguồn nước và đất canh tác, kháng sinh đang bị sử dụng sai cách, quá liều, sai mục đích, không tuân thủ nguyên tắc cách ly.

Chúng ta không nghe thấy tiếng nổ nào, nhưng bức tường phòng thủ của y học và nông nghiệp đang dần nứt vỡ. Những loại thuốc từng được coi là “thần dược” giờ chỉ còn là danh nghĩa. Nhiều trang trại phải chi gấp đôi tiền thuốc để đạt hiệu quả như trước. Nhiều lô thủy sản bị trả về vì tồn dư kháng sinh. Và điều khiến các chuyên gia lo ngại hơn cả, là các dòng vi khuẩn kháng thuốc đã bắt đầu xuất hiện đồng thời ở người, vật nuôi và môi trường tức là vòng xoáy đã khép kín.

Nếu không ngăn chặn kịp thời, hậu quả không chỉ là mất kiểm soát trong sản xuất nông nghiệp mà là sự suy giảm năng lực điều trị của cả hệ thống y tế. Khi kháng sinh không còn hiệu quả, những bệnh đơn giản như nhiễm trùng da, viêm phổi hay tiêu chảy cũng có thể trở thành mối đe dọa sinh mạng. Và những thành tựu nông nghiệp, y học tích lũy suốt nhiều thập niên sẽ đứng trước nguy cơ sụp đổ.

“Một sức khỏe” - con đường buộc phải đi

Khi kháng sinh mất tác dụng, những hệ lụy không dừng lại ở đàn heo ốm không khỏi hay ao tôm thất thu. Điều đáng lo hơn là vi khuẩn kháng thuốc đang âm thầm dịch chuyển giữa vật nuôi, con người và môi trường, làm suy yếu khả năng chữa bệnh của cả hệ thống y tế. Trong bối cảnh đó, khái niệm “Một sức khỏe - One Health” không còn là học thuyết xa lạ, mà đang trở thành kim chỉ nam cho mọi nỗ lực phòng, chống kháng kháng sinh trong nông nghiệp.

Nguyên lý của “Một sức khỏe” rất rõ ràng: không thể tách biệt sức khỏe con người khỏi sức khỏe động vật và môi trường. Một loại kháng sinh sử dụng bừa bãi trong ao nuôi hôm nay có thể là nguyên nhân khiến thuốc điều trị nhiễm trùng đơn giản trở nên vô hiệu vào ngày mai. Và môi trường đất, nước bị ô nhiễm kháng sinh chính là “hành lang di chuyển” cho gene kháng thuốc lan rộng trong cộng đồng.

Hiểu rõ điều đó, những năm gần đây, Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chủ động lồng ghép nguyên tắc “Một sức khỏe” vào các chính sách kiểm soát chất thải chăn nuôi, giám sát dư lượng thuốc thú y, và hướng dẫn sản xuất an toàn sinh học tại các vùng chăn nuôi, nuôi trồng trọng điểm.

“Kháng sinh không phải là công cụ mặc định, càng không thể là giải pháp lâu dài. Chúng tôi đang hướng ngành nông nghiệp theo mô hình quản trị rủi ro, phòng bệnh từ gốc và kiểm soát môi trường nuôi dưỡng, đó là nền tảng của cách tiếp cận Một sức khỏe,” đại diện Cục Môi trường nhấn mạnh!.

Trên thực tế, những mô hình sản xuất nông nghiệp không kháng sinh đã và đang thành hình ở nhiều địa phương. Ở Đồng Nai, một số trại heo ứng dụng hệ thống làm mát, chiếu sáng, cách ly và tiêm phòng nghiêm ngặt thay vì lệ thuộc vào thuốc. Ở Bạc Liêu, nhiều hộ nuôi tôm đã chuyển sang dùng chế phẩm sinh học, men vi sinh để cải thiện môi trường nước. Những thay đổi này không chỉ giúp vật nuôi khỏe mạnh hơn, mà còn giảm thiểu rủi ro phát tán mầm bệnh ra môi trường và cộng đồng.

Tuy nhiên, để mở rộng cách làm ấy, không thể chỉ trông chờ vào nông dân “tự giác”. Chính sách phải đi trước, truyền thông phải đi cùng, chế tài phải đủ mạnh. Và hơn hết, phải có một hệ thống kỹ thuật, pháp lý, tài chính đồng bộ, giúp người sản xuất có điều kiện tiếp cận, học hỏi và thay đổi.

Bởi vì “Một sức khỏe” không phải là một khẩu hiệu. Đó là con đường duy nhất, nếu chúng ta muốn giữ lại hiệu quả của kháng sinh cho tương lai và bảo vệ một nền nông nghiệp không bị khủng hoảng vì chính công cụ mà nó từng dựa vào.

Ông Phạm Hồng Quân - Cục Môi trường cho biết: Thực hiện nhiệm vụ được giao (Quyết định số 1121/QĐ-TTg ngày 25/9/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về phòng, chống kháng thuốc tại Việt Nam giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn 2045), dựa theo tình hình thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế của các nước đã triển khai, Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng dự thảo Đề án giám sát kháng thuốc trong môi trường giai đoạn 2025- 2030 với mục tiêu “Nâng cao năng lực và hiệu quả triển khai các hoạt động, chương trình thí điểm giám sát kháng thuốc trong môi trường, góp phần giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của vi khuẩn kháng thuốc và dư lượng kháng sinh tồn dư tới môi trường và sức khỏe cộng đồng”.  Đây là định hướng chiến lược toàn diện, khẳng định rõ quan điểm: phòng, chống kháng thuốc là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài và cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị - trong đó ngành nông nghiệp giữ vai trò then chốt.

Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam xây dựng được một hệ thống giám sát và quản lý sử dụng kháng sinh hiệu quả trong các lĩnh vực y tế, chăn nuôi, thủy sản, môi trường và sản xuất thực phẩm. Đồng thời, giảm tỷ lệ kháng thuốc thông qua việc quản lý sử dụng kháng sinh một cách có trách nhiệm, tăng cường áp dụng thực hành sản xuất tốt, kiểm soát chất thải và nâng cao nhận thức cộng đồng.

Tầm nhìn đến năm 2045, Chiến lược hướng tới việc duy trì hiệu quả của kháng sinh trong điều trị, đảm bảo an toàn cho sức khỏe người dân, vật nuôi, hệ sinh thái trên nền tảng tiếp cận “Một sức khỏe - One Health” và phát triển bền vững.

Không chỉ là một kế hoạch hành động, Chiến lược 1121/QĐ-TTg còn là cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, thể hiện trách nhiệm trong việc chung tay giải quyết một trong những thách thức y tế toàn cầu nghiêm trọng nhất thế kỷ 21.

Việc lạm dụng kháng sinh cho người để sử dụng cho vật nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản đang là phổ biến khi nười nuôi cho rằng sử dụng kháng sinh y tế chữa bệnh cho động vật nuôi sẽ hiệu quả hơn.

Chính sách phải đi trước, chế tài phải đủ mạnh, truyền thông phải sâu rộng

Trong cuộc chiến chống kháng thuốc - nơi thời gian là kẻ thù và thói quen là rào cản chính sách không thể đi sau thực tiễn. Bởi khi những vi khuẩn kháng thuốc đã lan rộng trong chuỗi thực phẩm, môi trường và cộng đồng, cái giá phải trả không chỉ là mất kiểm soát dịch bệnh trên vật nuôi, mà là những hệ lụy dài hạn cho y tế, kinh tế và an toàn quốc gia.

Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể: từ cấm sử dụng kháng sinh làm chất kích thích tăng trưởng trong thức ăn chăn nuôi (áp dụng từ năm 2021), đến xây dựng hệ thống giám sát tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản xuất khẩu, ban hành quy định bắt buộc kê đơn thuốc thú y. Tuy nhiên, việc thực thi vẫn đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt ở cấp cơ sở, nơi lực lượng quản lý còn mỏng, điều kiện giám sát còn hạn chế, và tình trạng bán thuốc thú y không đơn vẫn diễn ra công khai.

Một cán bộ thanh tra ở xã Trường Yên, TP. Hoa Lư (Ninh Bình) chia sẻ: “Hiện không thiếu quy định, nhưng thiếu nguồn lực tại địa phương thực hiện. Xử phạt cũng có, nhưng mức phạt thấp hơn lợi nhuận từ việc vi phạm, nên chưa đủ răn đe.”

Trong khi đó, việc truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất thải chăn nuôi, theo dõi gene kháng thuốc trong môi trường vẫn còn manh mún, thiếu sự liên kết liên ngành. Để chống kháng sinh hiệu quả, không thể chỉ dừng ở biện pháp hành chính. Cần một hệ thống chính sách đồng bộ từ khâu quản lý sản xuất thuốc, phân phối, sử dụng, giám sát môi trường và kiểm soát đầu ra sản phẩm nông sản.

Song song với đó, truyền thông phải đi sâu, đi trúng và đi cùng người dân. Tại nhiều vùng nông thôn, nhận thức về kháng sinh và kháng thuốc vẫn còn rất mơ hồ. Không ít hộ chăn nuôi vẫn xem kháng sinh là “bảo hiểm” cho cả chu kỳ nuôi. Họ không lường hết hậu quả, bởi chưa có đủ thông tin khoa học, chưa được tiếp cận kiến thức thay thế và chưa thấy lợi ích cụ thể khi thay đổi.

Chính vì vậy, các chiến dịch truyền thông cần đổi cách làm: không chỉ tuyên truyền một chiều, mà phải đào tạo, hướng dẫn, kể chuyện thực tiễn, từ mô hình nông dân giảm kháng sinh hiệu quả, đến sự vào cuộc của doanh nghiệp sản xuất xanh, thị trường tiêu dùng ủng hộ sản phẩm sạch. Truyền thông không chỉ dành cho người dân mà cả cán bộ quản lý, doanh nghiệp và chính các nhà hoạch định chính sách.

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã và đang là đầu mối thúc đẩy cơ chế phối hợp liên ngành giữa nông nghiệp, y tế, tài nguyên - môi trường, đặc biệt trong triển khai Chiến lược quốc gia về phòng, chống kháng thuốc (QĐ số 1121/QĐ-TTg). Việc xây dựng các bộ công cụ truyền thông chuyên biệt cho từng đối tượng từ hộ nông dân, hợp tác xã, bác sĩ thú y đến cán bộ xã/phường là một phần trong kế hoạch hành động.

“Kháng thuốc là vấn đề kỹ thuật, nhưng giải pháp lại nằm ở quản lý, nhận thức và truyền thông. Nếu không chuyển được niềm tin của người dân vào cách làm mới, thì chính sách tốt đến đâu cũng sẽ bị bỏ ngỏ,” đại diện Bộ Y tế nhận định.

Cuộc chiến này không thể thắng nếu chỉ có chính sách nằm trên giấy, chế tài nằm trong văn bản và thông tin chỉ đi qua loa đài. Cần một hệ thống chuyển động đồng bộ, có kỷ cương, có định hướng và có lan tỏa, để kháng sinh được dùng đúng, dùng đủ và được giữ lại như một tài sản quý giá cho tương lai.

Ngăn chặn kháng thuốc: Không ai được đứng ngoài

Trong một thế giới ngày càng kết nối, nơi con người, vật nuôi và môi trường chia sẻ cùng một không gian sinh tồn, kháng thuốc không còn là câu chuyện riêng của ngành y tế hay nỗi lo của vài hộ chăn nuôi. Đây là một cuộc khủng hoảng thầm lặng nhưng lan tỏa, nơi mọi chủ thể từ người sản xuất, người tiêu dùng đến nhà quản lý và doanh nghiệp đều có vai trò và trách nhiệm.

Nếu người chăn nuôi lạm dụng kháng sinh để “bảo vệ đàn” thì người tiêu dùng cũng phải đặt câu hỏi: thực phẩm mình sử dụng có an toàn? Người bán thuốc thú y phải hiểu rằng mỗi liều kháng sinh bán ra không kê đơn là một viên gạch nhỏ xây nên “bức tường kháng thuốc”. Và nhà quản lý không thể đứng ngoài khi thị trường thuốc thú y còn dễ tiếp cận hơn,… kiến thức sử dụng đúng.

Cuộc chiến chống kháng thuốc là một nỗ lực liên ngành và liên tầng. Từ trung ương đến địa phương, từ chính sách đến thực thi, từ chuyên gia đến nông dân, ai cũng là một mắt xích trong chuỗi hành động. Nếu một mắt xích yếu, cả hệ thống sẽ bị đứt gãy.

Những bài học từ thực tiễn cho thấy: nơi nào có sự phối hợp chặt giữa ngành nông nghiệp - y tế - môi trường, nơi đó kiểm soát tốt hơn tình trạng kháng sinh. Những địa phương chủ động giám sát môi trường chăn nuôi, tăng cường thanh tra thú y, đẩy mạnh đào tạo nông dân đều ghi nhận kết quả tích cực. Nhưng cũng không hiếm nơi, quy định có mà không thực hiện, hoặc để người dân “tự lo, tự liệu”, dẫn đến tái diễn vòng lặp kháng sinh kháng thuốc.

“Kháng sinh là ‘con dao hai lưỡi’. Nếu không có hệ thống kiểm soát đồng bộ, trách nhiệm phân rõ, thì lưỡi dao sẽ quay lại với tất cả chúng ta, từ người nuôi đến người ăn, từ nhà thuốc đến bệnh viện,” - Bà Nguyễn Hải An, chuyên gia dịch tễ cảnh báo!.

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với vai trò điều phối lĩnh vực nông nghiệp, môi trường trong Chiến lược quốc gia phòng, chống kháng thuốc, đang từng bước xây dựng cơ chế phối hợp đa ngành, lồng ghép yêu cầu kiểm soát kháng sinh vào chính sách quản lý chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và an toàn sinh học.

Song hành với đó, doanh nghiệp, đặc biệt trong chuỗi sản xuất thực phẩm cũng cần thay đổi. Không thể vì lợi nhuận ngắn hạn mà “ngó lơ” trước nguy cơ dài hạn. Những thương hiệu nông sản uy tín ngày nay không chỉ cam kết “sạch”, mà còn phải “không kháng sinh”, “truy xuất nguồn gốc” và “thân thiện môi trường”.

Về phía người dân, đã đến lúc kháng sinh không còn được nhìn như một thứ “bùa hộ mệnh” cho vật nuôi. Đó phải là công cụ sử dụng có trách nhiệm, đúng bệnh, đúng liều, đúng cách. Và trên hết, là hiểu rằng: mỗi lần dùng kháng sinh sai, là một lần đẩy tương lai vào thế bị động.

Áp dụng mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, dừng sử dụng kháng sinh trong thức ăn cho lợn là góp phần ngăn chặn lan rộng vi khuẩn kháng thuốc.

Hành động hôm nay, để không trả giá ngày mai

Lịch sử của ngành y học từng chứng kiến sự kỳ diệu của kháng sinh loại “thần dược” từng cứu sống hàng triệu người và giúp ngành nông nghiệp vượt qua nhiều dịch bệnh thảm khốc. Nhưng nếu hôm nay chúng ta tiếp tục sử dụng kháng sinh như một thứ “thuốc tiện tay”, thì ngày mai, chính chúng ta - con người, vật nuôi và cả môi trường - sẽ trở thành nạn nhân của sự lơ là đó.

Kháng sinh đang mất tác dụng nhanh hơn khả năng tìm ra thuốc thay thế. Mỗi loại vi khuẩn kháng thuốc là một lời cảnh báo rằng: các công cụ điều trị bệnh trong nông nghiệp và y tế đang bị bào mòn bởi chính bàn tay của con người. Một khi vi khuẩn kháng lại hết các nhóm thuốc hiện có, những ca nhiễm trùng thông thường cũng có thể trở thành án tử. Khi ấy, không chỉ là ngành nông nghiệp tổn thất, mà là cả xã hội gánh chịu hậu quả.

Một minh chứng và hậu hoạ khi bị kháng thuốc

Chống kháng thuốc không phải là cuộc chiến của một ngành, càng không thể là phong trào nhất thời. Đó là chiến lược dài hạn, liên ngành, liên thế hệ. Và điều quan trọng hơn cả: nó bắt đầu từ những hành động cụ thể hôm nay - từ việc một hộ chăn nuôi dừng trộn thuốc vào cám, một người tiêu dùng hỏi về nguồn gốc thực phẩm, một hiệu thuốc thú y từ chối bán thuốc không đơn, đến việc một nhà quản lý cứng rắn xử lý sai phạm và kiên trì với lộ trình chuyển đổi.

Việt Nam đang có trong tay khung chiến lược, chính sách rõ ràng như Quyết định số 1121/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia phòng, chống kháng thuốc. Nhưng chiến lược chỉ trở nên sống động khi từng người, từng ngành cùng nhập cuộc và quan trọng hơn cả là không ai thờ ơ đứng ngoài.

“Chúng ta không thể nói về một nền nông nghiệp bền vững, nếu vẫn sản xuất bằng cách hy sinh sức khỏe cộng đồng trong tương lai,” - TS. Hoàng Hải Yến, chuyên gia kinh tế đã nhận định!.

Không có một giải pháp duy nhất nhưng có một nguyên tắc chung: Đừng trì hoãn!. Bởi mỗi ngày không hành động là một ngày chúng ta đang mất đi cơ hội để gìn giữ giá trị của kháng sinh và niềm tin vào thực phẩm an toàn.

Hồng Minh

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Việt Nam - Australia hợp tác phát triển nông nghiệp xanh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Nông nghiệp

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Giò chả Ước Lễ Xuân Hương, sản phẩm OCOP 4 sao - tinh hoa hương vị Việt giữ trọn hồn dân tộc

Đắk Lắk: Nông dân được mùa “vải thiều” nhờ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và ứng dụng khoa học kỹ thuật

Định hình cơ quan Nông nghiệp và Môi trường cấp xã trong giai đoạn mới

Tài nguyên

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Quảng Bình - Quảng Trị: Cơ hội vàng cho kinh tế biển bứt phá

Khai thác đúng sản lượng cấp phép, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Cộng đồng xanh Hà Nội: Khi những người trẻ chọn sống tử tế với môi trường

Ngô Quyền (Hà Đông): Đường thành bãi lầy sau mưa, dân khốn khổ vì bụi bẩn và ô nhiễm

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

3 huyện, thị xã về đích nông thôn mới

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt

Tiêu dùng xanh trong đô thị: Thay đổi thói quen hướng tới phát triển bền vững