
Nông thôn mới - Hành trình bền bỉ, kiến tạo tương lai phát triển bền vững
23/06/2025TN&MTNgày 22/6/2025, tại Hà Nội, Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2021-2025 đã diễn ra với sự tham dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương cùng nhiều chuyên gia, doanh nghiệp và người dân. Đây không chỉ là dịp đánh giá kết quả một giai đoạn then chốt, mà còn là bước chuẩn bị quan trọng cho chặng đường mới, xây dựng nông thôn phát triển toàn diện, hiện đại và bền vững đến năm 2035.
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy tham quan một gian trưng bày sản phẩm OCOP. (Ảnh: Trần Hải)
Dấu ấn vượt khó, khẳng định quyết tâm chính trị cao
Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động, đặc biệt là tác động kép của dịch covid -19, thiên tai và biến đổi khí hậu, chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2021- 2025 đã thể hiện bản lĩnh, sự kiên trì và hiệu quả trong điều hành, tổ chức thực hiện.
Theo Báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, Chương trình xây dựng nông thôn mới đã cơ bản hoàn thành toàn bộ các mục tiêu được Quốc hội và Chính phủ giao, trong đó, có 5/8 chỉ tiêu chủ yếu đã hoàn thành, vượt mức mục tiêu đề ra, cụ thể: (1) Mục tiêu cấp xã: Cả nước đã có 6.084/7.669 xã (79,3%) đạt chuẩn NTM (tăng 10,6% so với cuối năm 2021 và cơ bản hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao); có 2.567 xã (42,2%) đạt chuẩn NTM nâng cao (tăng 2.064 xã so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao) và 743 xã (12,2%) đạt chuẩn NTM kiểu mẫu (tăng 700 xã so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao); (2) Mục tiêu cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM, huyện NTM nâng cao: Cả nước đã có 329/646 đơn vị cấp huyện (51%) thuộc 60 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM (tăng 116 đơn vị so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao), trong số các huyện đạt chuẩn NTM đến nay, đã có 48/240 huyện (20%) đã đạt chuẩn NTM được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao (hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao); (3) Mục tiêu cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM: Có 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn NTM (tăng 11 tỉnh so với cuối năm 2021), trong đó, có 19 tỉnh, thành phố có 100% số xã đạt chuẩn NTM và 100% đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ NTM. Có 12 tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM (đạt 80% mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao).
Cũng theo báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 mục tiêu thu nhập bình quân của người dân nông thôn: Năm 2024 đạt khoảng 54 triệu đồng/người/năm3 (tăng 1,3 lần so với năm 2020), dự kiến năm 2025 đạt khoảng 58 triệu đồng/người/năm (tăng 1.4 lần so với năm 2020, cơ bản hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao).
Một số kết quả nổi bật đạt được của chương trình NTM, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn tiếp tục khẳng định vai trò then chốt, tạo nền tảng thúc đẩy thực hiện hiệu quả các mục tiêu xây dựng nông thôn mới theo hướng bền vững và toàn diện. Các địa phương đã chủ động rà soát, lồng ghép nhiều nguồn lực, đặc biệt là vốn đầu tư công trung hạn, để triển khai đồng bộ hệ thống hạ tầng thiết yếu theo hướng hiện đại, phù hợp đặc thù vùng miền và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hạ tầng giao thông có chuyển biến tích cực, tỷ lệ xã đạt tiêu chí số 02 đạt 87,3% (tăng 6,3% so với cuối năm 2021); một số địa phương như Hải Phòng, Nam Định, Bà Rịa - Vũng Tàu đã hoàn thành nhựa hóa, bê tông hóa 100% đường trục xã, liên xã, tăng cường kết nối vùng và phục vụ phát triển nông nghiệp hàng hóa. Hệ thống thủy lợi và phòng, chống thiên tai được ưu tiên đầu tư tại vùng hạn hán, xâm nhập mặn; tiêu chí số 03 đạt 98,1% số xã (tăng 1,6%). Một số mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích ứng tại Long An, Bến Tre phát huy hiệu quả rõ rệt. Hệ thống điện nông thôn tiếp tục được mở rộng, bảo đảm cung cấp ổn định cho trên 99,7% hộ dân; tiêu chí số 04 đạt 96,5% xã (tăng 1,7%). Hạ tầng xã hội được đầu tư đồng bộ: tỷ lệ xã đạt tiêu chí số 05 (Trường học) đạt 87,5% (tăng 7,3 %); tiêu chí số 06 (Cơ sở vật chất văn hóa) đạt 85,7% (tăng 4,8%); tiêu chí số 07, 08 (Thương mại nông thôn, Thông tin - Truyền thông) đều đạt 97% (tăng 1,6%); tiêu chí số 09 (Nhà ở dân cư) đạt 88,4% (tăng 3,5%). Chuyển đổi số trong hạ tầng có nhiều tiến bộ. Nhiều tỉnh như Yên Bái, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, ĐồngTháp đã phủ sóng Internet 100% xã và triển khai tổ công nghệ số cộng đồng, thu hẹp khoảng cách số, tạo nền tảng phát triển kinh tế số nông thôn.
Một điểm mới là bước đầu hình thành hạ tầng logistics nông nghiệp tại cấp xã. Một số địa phương như Hải Dương, Hòa Bình đã xây dựng điểm thu mua, sơ chế, bảo quản nông sản, góp phần kết nối sản xuất với thị trường, giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng.
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn tiếp tục được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, bình quân khoảng 3,18%/năm; kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt mức kỷ lục 62,5 tỷ USD, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều địa phương hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với vùng nguyên liệu và hệ thống logistics; giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp tăng bình quân 5-10% so với năm 2020. Hệ thống hợp tác xã tiếp tục được củng cố, đến năm 2025 có khoảng 22.162 HTX nông nghiệp hoạt động, nhiều HTX chuyển đổi mô hình theo hướng liên kết chuỗi, ứng dụng công nghệ và phát triển sản phẩm OCOP. Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp tăng mạnh, nhất là trong lĩnh vực chế biến và tiêu thụ nông sản. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) tiếp tục là điểm nhấn, góp phần phát triển kinh tế nông thôn. Đến tháng 6/2025, cả nước có 16.543 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên (tăng 12.056 sản phẩm so với năm 2020), với 8.924 chủ thể tham gia, chủ yếu là HTX và doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm được đẩy mạnh, giúp khẳng định thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ. Các mô hình du lịch nông nghiệp, cộng đồng và làng nghề tiếp tục phát triển, gắn kết hài hòa giữa văn hóa, cảnh quan và sản phẩm OCOP. Hiện có khoảng 580 mô hình du lịch nông thôn đang hoạt động, trong đó 382 điểm đã được công nhận. Nhiều địa phương phát triển ngành nghề gắn với đào tạo nghề, bảo tồn làng nghề truyền thống, tạo việc làm và sinh kế bền vững. Ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong nông nghiệp ngày càng được chú trọng. Nhiều mô hình sản xuất thông minh, số hóa quy trình, truy xuất nguồn gốc và thương mại điện tử đã được triển khai. Một số địa phương xây dựng sàn giao dịch nông sản trực tuyến, phát triển HTX số, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất.
Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tổ chức linh hoạt, gắn với nhu cầu thực tiễn. Nhiều lớp nghề được mở tại doanh nghiệp, HTX, giúp nâng cao kỹ năng và mở rộng sinh kế, trong đó có cả nhóm lao động trung niên. Phong trào khởi nghiệp nông nghiệp có chuyển biến tích cực, đặc biệt trong lực lượng thanh niên với nhiều mô hình hiệu quả tại Lâm Đồng, Bắc Giang, Quảng Nam, Hà Tĩnh... Thu nhập bình quân khu vực nông thôn năm 2024 đạt 54 triệu đồng/người/năm (tăng 1,3 lần so với năm 2020). Đến tháng 6/2025, có 81% số xã đạt tiêu chí Thu nhập; 93,2% đạt tiêu chí Lao động; 88,3% đạt tiêu chí Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn.
Các địa phương tiếp tục quan tâm đầu tư đồng bộ vào giáo dục, y tế và văn hóa nông thôn, góp phần nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Hệ thống giáo dục nông thôn từng bước được nâng cấp về cơ sở vật chất và chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ xã đạt tiêu chí Trường học đạt 87,5% (tăng 7,3%), tiêu chí Giáo dục và Đào tạo đạt 95,6%. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia tăng mạnh ở các cấp học, nhất là mầm non và tiểu học. Công tác phổ cập, duy trì sĩ số, triển khai mô hình giáo dục gắn với thực tiễn giúp hình thành nguồn nhân lực thích ứng với chuyển đổi số và phát triển kinh tế nông thôn.
Lĩnh vực y tế có nhiều chuyển biến tích cực. Mạng lưới trạm y tế xã được củng cố, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu. Một số địa phương như Bắc Giang, Thái Bình, Đồng Tháp triển khai hiệu quả các mô hình y tế dự phòng, khám chữa bệnh từ xa, quản lý sức khỏe hộ gia đình, góp phần giảm tải tuyến trên và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tỷ lệ xã đạt tiêu chí Y tế đạt 92,9%. Một số mô hình chăm sóc người cao tuổi, truyền thông dinh dưỡng, vệ sinh cộng đồng bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dân số nông thôn.
Một góc nông thôn mới đổi thay - nơi công nghệ 4.0 không còn là khái niệm xa lạ, mà đã hiện diện trong từng cánh đồng, hợp tác xã, góp phần làm nên diện mạo hiện đại, năng động và đáng sống cho vùng quê hôm nay.
Đời sống văn hóa nông thôn tiếp tục được cải thiện. Các thiết chế văn hóa - thể thao cơ sở như nhà văn hóa, sân thể thao, thư viện,... được đầu tư nâng cấp, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được duy trì hiệu quả, với trên 90% hộ gia đình và thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa. Các hoạt động văn nghệ, lễ hội truyền thống, thư viện cộng đồng được tổ chức thường xuyên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, nhất là văn hóa dân tộc thiểu số, được lồng ghép hiệu quả với phát triển du lịch cộng đồng tại nhiều địa phương như: Ninh Bình, Hà Tĩnh, Bình Định, Trà Vinh. Tỷ lệ xã đạt tiêu chí Cơ sở vật chất văn hóa đạt 85,7%; tiêu chí Văn hóa đạt 95,2%.
Cũng trong giai đoạn này, công tác bảo vệ môi trường và xây dựng cảnh quan nông thôn có chuyển biến mạnh mẽ, không chỉ làm thay đổi diện mạo nông thôn theo hướng sáng - xanh - sạch - đẹp - an toàn mà còn nâng cao rõ rệt ý thức, trách nhiệm của người dân đối với môi trường sống. Các địa phương đã triển khai đồng bộ các mô hình phù hợp thực tiễn như: phân loại, xử lý rác thải tại nguồn; cải tạo cảnh quan thôn, xóm; chỉnh trang nghĩa trang; di dời chuồng trại ra khỏi khu dân cư. Đến giữa năm 2025, 87,5% xã đạt tiêu chí số 17 về Môi trường và an toàn thực phẩm (tăng 2,5% so với cuối năm 2021); 100% xã tổ chức tuyên truyền về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu.
Nhiều mô hình, cách làm sáng tạo được nhân rộng như: “Tuyến đường hoa NTM”, “Thôn không rác”, “Khu dân cư kiểu mẫu sáng - xanh - sạch - đẹp”,… góp phần thay đổi thói quen sinh hoạt, xây dựng môi trường sống văn minh, lành mạnh.
Một số tỉnh như Bắc Giang, Hậu Giang, Hà Tĩnh, Đồng Tháp đã phát huy hiệu quả trong việc hình thành hệ thống cây xanh, chi ếu sáng, điểm sinh hoạt cộng đồng gắn với bảo vệ môi trường. Phong trào “Ngày Chủ nhật xanh”, “Ngày thứ Bảy tình nguyệnvì môi trường” và các hoạt động tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm được duy trì thường xuyên, thu hút sự tham gia tích cực của người dân, đoàn thể và học sinh. Nhiều công trình như nhà tiêu hợp vệ sinh, điểm thu gom rác, bể chứa bao bì thuốc bảo vệ thực vật được đầu tư đồng bộ, góp phần nâng cao chất lượng môi trường và sức khỏe cộng đồng nông thôn.
Công tác quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn tiếp tục được tăng cường, góp phần ổn định chính trị và tạo môi trường an toàn phục vụ xây dựng NTM. Đến nay, 95,4% số xã đạt tiêu chí số 19 về Quốc phòng và An ninh; 100% xã duy trì lực lượng công an chính quy, dân quân tự vệ thường trực. Toàn quốc có 86.030 tổ bảo vệ an ninh trật tự với 274.473 thành viên; lực lượng công an xã chính quy khoảng 55.000 cán bộ, phát huy hiệu quả vai trò nòng cốt trong nắm bắt tình hình, xử lý ổn định các vụ việc ngay từ cơ sở, không để phát sinh điểm nóng. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” gắn với xây dựng NTM được triển khai sâu rộng với nhiều mô hình hiệu quả như “camera an ninh”, “tổ liên gia an toàn”, “tổ hòa giải ở cơ sở”. Công tác quốc phòng, huấn luyện dân quân, giáo dục quốc phòng - an ninh được duy trì nền nếp, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân vững chắc tại khu vực nông thôn.
Những thành quả trên không đến từ một sớm một chiều, mà là kết quả của cả một hệ thống chính trị vào cuộc, sự đổi mới trong tư duy phát triển nông thôn theo hướng tích hợp, đa ngành, lấy người dân làm trung tâm. Từ cơ chế chính sách đến cách thức tổ chức, từ nguồn lực Trung ương đến huy động xã hội hóa, Chương trình NTM đã khẳng định đây không chỉ là một chương trình phát triển hạ tầng, mà là một cuộc cách mạng toàn diện về nông thôn, nông dân và nông nghiệp.
Hiệu quả của nông thôn mới phản ánh qua đời sống của nông dân
Bài học lớn từ thực tiễn, nền tảng cho giai đoạn tiếp theo
Sau hơn một thập kỷ triển khai và đặc biệt trong giai đoạn 2021-2025 đầy biến động, Chương trình xây dựng nông thôn mới đã không chỉ đạt được những kết quả ấn tượng về mặt chỉ tiêu mà còn để lại nhiều bài học sâu sắc về tư duy phát triển, cách thức tổ chức và vận hành chính sách ở cấp cơ sở.
Thứ nhất, bài học về vai trò trung tâm của người dân. Một trong những yếu tố then chốt làm nên thành công của Chương trình là việc chuyển dịch mạnh mẽ tư duy "Nhà nước làm, dân hưởng" sang "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng". Từ chỗ e ngại, bị động, người dân nay đã trở thành chủ thể thực sự, tham gia đóng góp công sức, hiến đất, giám sát và duy trì thành quả NTM. Chính sức dân đã tạo nên sự bền vững của chương trình, giúp nông thôn chuyển mình nhưng vẫn giữ được bản sắc, gắn kết cộng đồng.
Thứ hai, bài học về sự thống nhất trong lãnh đạo, điều hành và huy động cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc. Từ Trung ương đến cấp xã, vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể luôn được phát huy rõ nét. Việc lồng ghép chương trình NTM với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, như giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cũng cho thấy tính phối hợp liên ngành, liên vùng là điều kiện tiên quyết để tránh chồng chéo và phát huy hiệu quả tổng hợp của nguồn lực.
Thứ ba, bài học về cơ chế chính sách linh hoạt và phân cấp phù hợp. Thực tiễn cho thấy không thể áp dụng một “khuôn mẫu cứng” cho mọi địa phương. Sự linh hoạt trong quy định tiêu chí phù hợp với đặc thù miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giúp nâng cao khả năng tiếp cận chương trình. Phân cấp rõ ràng, đi kèm tăng cường giám sát và minh bạch hóa quy trình đầu tư, xây dựng, đã tăng tính chủ động cho cấp cơ sở mà vẫn giữ được kỷ luật tài chính và trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, bài học về cách tiếp cận phát triển bền vững, không chạy theo thành tích. Một số địa phương từng mắc sai lầm khi "vội vàng về đích", tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mà lơ là các tiêu chí mềm như thu nhập, môi trường, văn hóa, tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, các đợt rà soát, kiểm tra thực tế đã giúp điều chỉnh kịp thời, nhấn mạnh rằng nông thôn mới không chỉ là "mới về hình thức" mà phải mới trong chất lượng sống, trong chuyển đổi sinh kế và trong thể chế quản trị cộng đồng. Đây là bài học quý giá cho giai đoạn tiếp theo: nếu không lấy chất lượng làm gốc, thành quả sẽ không bền vững.
Thứ năm, bài học về sự cần thiết của đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn. Những mô hình “xã thông minh”, “hợp tác xã số”, “nông thôn không rác thải”, hay ứng dụng công nghệ trong truy xuất nguồn gốc, bán hàng trực tuyến,… cho thấy tiềm năng lớn trong việc đưa công nghệ hiện đại về với nông thôn. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi đầu tư có trọng tâm, đi kèm với đào tạo kỹ năng, phổ cập tri thức, đảm bảo chuyển đổi số là công cụ giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng sống chứ không tạo thêm gánh nặng.
Cuối cùng, bài học về kiểm tra, giám sát và minh bạch thông tin. Việc đánh giá kết quả NTM không thể chỉ dựa vào báo cáo hành chính mà phải gắn với điều tra xã hội học, khảo sát độc lập và phản hồi từ người dân. Minh bạch hóa thông tin tài chính, lựa chọn công trình ưu tiên có sự tham vấn cộng đồng đã tạo sự đồng thuận cao và ngăn ngừa lãng phí, thất thoát.
Chính những bài học từ thực tiễn ấy sẽ là nền tảng quý báu, giúp định hình rõ hơn con đường phát triển nông thôn trong giai đoạn 2026-2035: không chỉ là phát triển “thêm” mà là phát triển “khác” sâu hơn, thông minh hơn, hài hòa hơn với thiên nhiên và giàu hơn về giá trị văn hóa con người.
Thông điệp từ Hội nghị: Nông thôn mới - không chỉ là đích đến mà là động lực đổi mới quốc gia
Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, tổ chức ngày 22/6/2025 tại Hà Nội, không chỉ là dịp tổng kết chặng đường vừa qua mà còn là điểm khởi đầu cho một giai đoạn phát triển sâu sắc, toàn diện hơn. Thông điệp mạnh mẽ phát đi từ hội nghị là: nông thôn mới không phải đích đến, mà là động lực đổi mới quốc gia là nơi khơi dậy sức mạnh nội sinh, là không gian phát triển mới, là điểm tựa cho phát triển bền vững, hài hòa, bao trùm.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu và chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững; các phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” và “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021-2025.
Tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Thực tiễn cho thấy việc xây dựng, tổ chức thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là đúng, trúng, phù hợp, hiệu quả mang lại rất tích cực. Chúng ta tiếp tục thực hiện các chương trình, phong trào thi đua, kiên trì, kiên định để thực hiện bằng được mục tiêu xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
Thủ tướng cho rằng trong bối cảnh hiện nay, phải lấy nguồn lực nhà nước đóng vai trò "vốn mồi", dẫn dắt, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội, kêu gọi đoàn kết, chung tay của tất cả mọi người, của doanh nghiệp, thúc đẩy hợp tác công tư. Phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để giải phóng nguồn lực; đào tạo nhân lực; đầu tư hạ tầng; làm tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội và môi trường nông thôn để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.
Thủ tướng lưu ý, việc triển khai các chương trình, phong trào phải sống động, thực chất, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, mang lại hiệu quả cân đong đo đếm được; đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, có công cụ để ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong quá trình thực hiện; các cơ quan báo chí truyền thông cần vào cuộc đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về nội dung này.
Khẳng định vai trò là cơ quan chủ trì, thường trực của Chương trình, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho biết: Kết quả thực hiện hai Chương trình MTQG tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, nhà nước, được người dân đồng thuận cao, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Điều kiện sống người dân cải thiện rõ nét, nhất là các địa bàn khó khăn. Hạ tầng nông thôn phát triển đồng bộ, dịch vụ thiết yếu được mở rộng; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển và chênh lệch vùng miền.
“Công tác chỉ đạo, điều hành linh hoạt, tăng cường phân cấp cho địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu - nguồn lực - tổ chức thực hiện. Công tác truyền thông, giám sát, phản biện được chú trọng. Đã tiếp cận các xu thế phát triển mới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, du lịch nông thôn, dinh dưỡng, đào tạo nghề, tạo việc làm, bình đẳng giới, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đến năm 2030. Các phong trào "Cả nước chung sức xây dựng NTM", "Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau", cuộc vận động "Toàn dân xây dựng NTM, đô thị văn minh"…, có sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM và GNBV. Trong đó, đã có hàng triệu hộ dân tự nguyện hiến hơn 98,2 triệu m² đất, đóng góp hàng chục nghìn tỷ đồng và ngày công xây dựng NTM”- Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh!.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững; các phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” và “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2021-2025.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cũng chỉ rõ định hướng trọng tâm cho giai đoạn tới: “Không phải chỉ là đạt chuẩn, mà phải tạo ra các vùng nông thôn có khả năng tự chủ, thích ứng, sáng tạo và trở thành môi trường sống hấp dẫn, văn minh.” Bộ trưởng nhấn mạnh, vai trò của khoa học công nghệ, chuyển đổi số, đồng thời đề xuất cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư về nông thôn, đặc biệt là các mô hình kinh tế cộng đồng và nông nghiệp sinh thái. “Phải đưa công nghệ về nông thôn, nhưng phải phù hợp không phải "số hóa cho đẹp" mà phải thực chất, hiệu quả và dễ tiếp cận với người dân.”
Những phát biểu chỉ đạo đầy tâm huyết và tầm nhìn chiến lược từ người đứng đầu Chính phủ và Bộ chủ quản một lần nữa khẳng định: xây dựng nông thôn mới không chỉ là chương trình kinh tế - xã hội đơn thuần, mà là nền tảng cho đổi mới mô hình phát triển quốc gia. Đó là nơi kiểm nghiệm hiệu quả của chính sách, là môi trường thử nghiệm các mô hình quản trị mới, là không gian hội tụ các giá trị văn hóa, sinh thái công nghệ trong quá trình chuyển đổi của đất nước.
Thông điệp của hội nghị là một lời hiệu triệu: Toàn Đảng, toàn dân, toàn hệ thống chính trị cần tiếp tục vào cuộc, với tinh thần đổi mới sáng tạo, hành động quyết liệt và đặt lợi ích của người dân nông thôn vào trung tâm. Từ những cánh đồng hợp tác xã đến những bản làng vùng cao, từ vùng đồng bằng ven đô đến các đảo tiền tiêu - mọi nỗ lực xây dựng nông thôn mới hôm nay sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho tương lai một Việt Nam hùng cường, nhân văn và bền vững.
Xây dựng nông thôn mới không chỉ là quá trình hoàn thiện những tiêu chí, mà là hành trình kiến tạo một không gian sống đáng mơ ước cho hàng triệu người dân, nơi phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên. Với quyết tâm chính trị cao, sự đồng thuận xã hội và những bài học quý báu từ thực tiễn, nông thôn Việt Nam sẽ tiếp tục là động lực mạnh mẽ, bền vững cho tiến trình phát triển đất nước trong những thập niên tới.
Hồng Minh