
Phân cấp, linh hoạt, lấy dân làm gốc: Những kinh nghiệm cốt lõi từ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
25/06/2025TN&MTSau gần 5 năm triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) và giảm nghèo bền vững (GNBV) giai đoạn 2021-2025 đã và đang tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội ở nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhiều kinh nghiệm quan trọng và bài học chiến lược đã được đúc kết làm nền tảng cho những bước đi tiếp theo mang tính đột phá, bền vững và bao trùm.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho rằng: Kết quả thực hiện hai Chương trình Mục tiêu quốc gia tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, nhà nước, được người dân đồng thuận cao, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
Thành quả từ sự lãnh đạo thống nhất và hành động đồng bộ
Một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong giai đoạn này là vai trò chỉ đạo nhất quán của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Các chương trình không còn là nhiệm vụ riêng của ngành nông nghiệp hay của chính quyền cấp xã mà trở thành “chuyện chung” – nơi mà Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, doanh nghiệp, người dân cùng tham gia với tinh thần tự lực, chủ động. Cụ thể:
Một là, các kết quả đạt được thời gian qua là kết quả của sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ. Phong trào phải thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với làm tốt công tác chăm lo an sinh xã hội, tăng cường niềm tin của các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước, Chính phủ.
Hai là, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò quyết định trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Phong trào thi đua; sự phối kết hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong tổ chức, triển khai Phong trào thi đua với tinh thần huy động cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc. Thực tiễn cho thấy, nơi nào cấp ủy, chính quyền vào cuộc quyết liệt thì nơi đó Phong trào thi đua thực sự hiệu quả, thiết thực và đạt nhiều kết quả quan trọng.
Ba là, cần làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ, đảng viên, các cấp, các ngành và nhân dân, nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn dân về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Bốn là, tổ chức phong trào thi đua cần có tiêu chí thiết thực, cụ thể, nội dung trọng tâm, trọng điểm, lấy người dân làm trung tâm, là động lực của phong trào thi đua, phù hợp với tình hình thực tiễn của bộ, ban, ngành, địa phương; thường xuyên đối mới nội dung, phương thức tổ chức phong trào, linh hoạt, sáng tạo trong quá trình tố chức triển khai thực hiện nhằm huy động đông đảo các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Phong trào thi đua, kịp thời nắm bắt những kiến nghị, đề xuất, phát hiện và tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn; định kỳ tiến hành sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân tiêu biểu, lập được thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua nhằm cổ vũ, động viên phong trào, tạo hiệu quả lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng và xã hội.
Phân tích các nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Tô Lâm; sự chung sức đồng lòng của cả dân tộc, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự hợp tác của bạn bè quốc tế; phát huy sức mạnh tổng hợp trong mối quan hệ nông nghiệp, nông dân, nông thôn, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân; phát huy nguồn lực thiên nhiên, nền văn hóa, văn minh lúa nước và phát huy nguồn lực con người, sự tham gia của người nông dân.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu đã tham quan các gian trưng bày các sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu
Bài học về cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của Chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 là chuyển đổi tư duy phát triển từ “làm thay cho dân” sang “để dân làm, dân hưởng lợi và dân giám sát”. Đây không chỉ là khẩu hiệu mà trở thành triết lý xuyên suốt trong triển khai chính sách ở cơ sở.
Trên thực tế, khi người dân thực sự được tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch, lựa chọn dự án, giám sát đầu tư công và đánh giá kết quả, chất lượng các công trình, hoạt động xã hội sẽ được nâng lên rõ rệt. Sự đồng thuận xã hội không đến từ mệnh lệnh hành chính, mà từ sự chia sẻ thông tin minh bạch, lắng nghe tiếng nói của cộng đồng và xây dựng lòng tin giữa chính quyền với dân.
Tại nhiều địa phương, các mô hình như “tổ tự quản cộng đồng”, “ban giám sát đầu tư của cộng đồng”, “người dân hiến đất làm đường”, hay “phụ nữ làm chủ dự án sinh kế” không chỉ giúp giảm chi phí triển khai mà còn tạo sự gắn bó bền chặt giữa các nhóm dân cư với chính quyền cơ sở. Từ đó, tinh thần tự chủ, ý thức trách nhiệm và năng lực tổ chức của cộng đồng dân cư nông thôn được nâng lên, hình thành nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững.
Một ví dụ điển hình là ở nhiều xã vùng cao Tây Bắc hay Tây Nguyên, chính quyền đã tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp bằng tiếng dân tộc, mời già làng, người có uy tín tham gia tuyên truyền và lấy ý kiến từ cộng đồng trước khi triển khai dự án. Điều này giúp người dân không còn thụ động, e ngại, mà tích cực đóng góp công sức, tài sản, thậm chí đi đầu trong việc giữ gìn cảnh quan, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự thôn bản.
Đặc biệt, trong lĩnh vực giảm nghèo bền vững, bài học rút ra là không chỉ “cho cần câu” mà cần “cùng người dân đi câu”. Việc cung cấp sinh kế phải gắn với đào tạo kỹ năng, mở rộng thị trường tiêu thụ và kết nối với doanh nghiệp. Chính tư duy lấy người dân làm trung tâm đã làm thay đổi căn bản cách tổ chức hỗ trợ: từ hỗ trợ manh mún, ngắn hạn sang hỗ trợ có định hướng, có giám sát và có trách nhiệm lâu dài.
Tư duy này cũng đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ sở, phải thay đổi cách tiếp cận: không chỉ là người thực thi chính sách, mà còn là người truyền cảm hứng, hướng dẫn và đồng hành cùng người dân. Cán bộ phải “nằm lòng” địa bàn, thấu hiểu văn hóa cộng đồng, có kỹ năng vận động quần chúng và đặt lợi ích của dân lên trên hết.
Như lời của một cán bộ xã vùng sâu chia sẻ trong hội nghị tổng kết: “Khi người dân chưa hiểu, chưa tin, thì đừng vội bắt họ làm. Mỗi chính sách muốn thành công phải ‘đi qua trái tim’ của người dân.” Đây là bài học sâu sắc, có ý nghĩa quyết định đến thành - bại của mọi chương trình phát triển ở nông thôn.
Kinh nghiệm từ nhiều địa phương đã chứng minh rằng, chỉ khi người dân thực sự là chủ thể của quá trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững chương trình mới đi vào chiều sâu. Việc vận động, đối thoại, nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở, lồng ghép các chính sách hỗ trợ sinh kế, nhà ở, giáo dục - y tế… đã giúp người dân “tự đứng trên đôi chân mình” thay vì thụ động trông chờ trợ cấp.
Theo nhận xét của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, từ lúc triển khai chương trình đến nay, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt kết quả to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử. Giờ đây, câu hỏi không phải là làm gì cho nông thôn mà là làm sao để mỗi người dân nông thôn trở thành một chủ thể của sự thay đổi. Làm sao để nông thôn mới không chỉ gắn bó với người làng hôm nay mà còn là miền quê đáng sống, luôn muốn tìm về với những người trẻ lớn lên, học tập, làm việc giữa thành thị mai sau.
"Chúng ta đang bước vào một bối cảnh hoàn toàn khác. Sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính là một quyết định chiến lược nhằm tinh gọn bộ máy, tăng cường hiệu quả điều hành. Định hướng phân cấp, phân quyền sâu hơn đến cấp cơ sở, cấp thực thi, vận hành trực tiếp là cơ hội để địa phương phát huy tính lao động, sáng tạo. Sự đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là điều kiện để đưa tiến bộ về tận thôn xóm, bản làng. Xây dựng nông thôn mới với không gian cấp tỉnh, cấp xã rộng lớn hơn, phải có tiếp cận khác hơn. Cán bộ cấp cơ sở không chỉ dựa vào các tiêu chí cứng mà cần có sự sáng tạo dựa trên đặc điểm của mỗi địa phương. Không gian phát triển cấp xã không chỉ là không gian sản xuất mà là không gian tích hợp văn hóa, xã hội, cộng đồng, trong đó năng lực, tri thức của cư dân nông thôn là yếu tố quyết định. Quan trọng nhất là niềm tin, là sự chủ động, sự sẵn lòng thích ứng với sự thay đổi của người dân đã trở thành nguồn lực mạnh mẽ nhất. Xây dựng nông thôn mới không còn là chương trình của nhà nước mà đã thực sự là chương trình của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” - Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nhấn mạnh!
Sự linh hoạt và phân cấp hiệu quả là chìa khóa thành công
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã cho thấy một thực tế: không có công thức chung cho mọi địa phương. Bối cảnh tự nhiên, xã hội, dân tộc, trình độ phát triển khác nhau đòi hỏi một cách tiếp cận mềm dẻo, thích ứng và có trọng tâm. Đó cũng là lý do vì sao sự linh hoạt trong tổ chức thực hiện và phân cấp hiệu quả cho địa phương trở thành chìa khóa quan trọng để tạo đột phá.
Một trong những điểm tiến bộ của giai đoạn 2021-2025 là tăng cường vai trò chủ động của các tỉnh, thành phố trong lựa chọn nội dung ưu tiên đầu tư, thiết kế bộ tiêu chí phù hợp hơn với điều kiện thực tế. Thay vì áp dụng rập khuôn một “chuẩn nông thôn mới” duy nhất, nhiều tỉnh miền núi đã đề xuất điều chỉnh tiêu chí như giao thông, trường học, cơ sở vật chất văn hóa... cho phù hợp với địa hình khó khăn, mật độ dân cư thấp và đặc thù dân tộc thiểu số.
Chẳng hạn, tỉnh Lào Cai, Sơn La hay Kon Tum đã triển khai mô hình “nông thôn mới thích ứng vùng cao”, trong đó nhấn mạnh vai trò của phát triển sinh kế bản địa, bảo tồn văn hóa dân tộc và khai thác thế mạnh dược liệu, cây đặc sản. Sự linh hoạt còn thể hiện qua việc lồng ghép hiệu quả các chương trình, dự án khác như hỗ trợ người lao động, bảo vệ rừng, phát triển du lịch cộng đồng… nhằm sử dụng nguồn lực tiết kiệm, tránh chồng chéo và tăng hiệu quả đầu tư.
Quan trọng hơn, sự phân cấp rõ ràng giúp chính quyền cơ sở, đặc biệt là cấp xã, huyện phát huy vai trò là đơn vị tổ chức thực thi gần dân nhất. Khi được trao quyền đầy đủ về phê duyệt kế hoạch, điều phối nguồn lực, giám sát đầu tư, các địa phương không còn tâm lý “trông chờ” cấp trên, mà chủ động sáng tạo trong cách làm, linh hoạt trong vận dụng chính sách, nhanh nhạy trong tháo gỡ vướng mắc.
Tuy nhiên, trao quyền phải đi đôi với nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình. Một số nơi cho thấy khi cán bộ xã, huyện được tập huấn tốt, hiểu rõ quy trình và biết phối hợp đa ngành thì tiến độ giải ngân, chất lượng công trình và sự hài lòng của người dân đều tăng rõ rệt. Ngược lại, nơi cán bộ thiếu chủ động, chưa được phân quyền thực chất hoặc lúng túng trong lồng ghép các nguồn vốn thì hiệu quả chương trình còn thấp, thậm chí gây lãng phí, hình thức.
Kinh nghiệm này cho thấy, không nên “cào bằng” trong chỉ đạo và phân bổ nguồn lực, mà cần đánh giá đúng năng lực từng địa phương để có cơ chế phân cấp linh hoạt, đi đôi với kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập và hỗ trợ kỹ thuật phù hợp. Phân cấp không có nghĩa là buông lỏng; linh hoạt không đồng nghĩa với tùy tiện mà phải gắn liền với khung pháp lý rõ ràng, định hướng thống nhất và công cụ giám sát minh bạch.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đã từng chỉ đạo: “Chúng ta phải đưa cơ chế phân cấp vào thực chất, tránh hình thức. Địa phương có quyền, có nguồn lực thì mới có thể phát huy sáng tạo, phát triển dựa vào nội lực, điều kiện của mình”. Đây cũng là thông điệp xuyên suốt trong quá trình đổi mới thể chế để chương trình nông thôn mới và giảm nghèo bền vững tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ trong giai đoạn tới.
Các đại biểu theo dõi Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; phong trào thi đua “Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới”, phong trào “Vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, giai đoạn 2021 - 2025 tại điểm cầu tỉnh Lào Cai.
Huy động nguồn lực xã hội và công nghệ là động lực mới
Một trong những thách thức lớn nhất của chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 là nhu cầu nguồn lực rất lớn, trong khi ngân sách nhà nước vẫn còn hạn hẹp, đặc biệt ở các địa phương khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Trong bối cảnh đó, huy động nguồn lực xã hội và ứng dụng công nghệ trở thành yếu tố quyết định sự bền vững và khả thi của chương trình.
Bài học rút ra từ thực tiễn là: khi người dân, doanh nghiệp và cộng đồng được đặt vào vị trí đối tác thay vì “đối tượng thụ hưởng”, thì tiềm năng xã hội hóa sẽ được khai mở một cách hiệu quả. Nhiều địa phương đã thành công trong việc kêu gọi người dân hiến đất, góp công, doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng, xây dựng mô hình kinh tế nông thôn, phát triển du lịch cộng đồng, OCOP, logistics nông sản… Từ đó, tạo ra sức lan tỏa về tinh thần chủ động và cộng đồng trách nhiệm.
Ví dụ tại tỉnh Nam Định, Thái Bình, Đồng Tháp, hàng trăm mô hình “liên kết bốn nhà” đã được hình thành, từ đó giúp người nông dân có đầu ra ổn định, doanh nghiệp có vùng nguyên liệu bền vững, địa phương có thêm ngân sách, còn người dân thì có sinh kế thực chất và việc làm lâu dài. Ở những nơi như tỉnh Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, các doanh nghiệp đã đồng hành cùng chính quyền phát triển nông thôn mới kiểu mẫu, khu dân cư sinh thái, du lịch nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao...
Không thể không nhấn mạnh vai trò đột phá của công nghệ và chuyển đổi số những nhân tố mới đang thay đổi căn bản cách thức tổ chức sản xuất, quản trị cộng đồng và kết nối thị trường. Từ truy xuất nguồn gốc, sàn giao dịch nông sản, đến quản lý thôn bản thông minh, dịch vụ công trực tuyến cấp xã chuyển đổi số đang dần đi vào từng ngõ ngách nông thôn. Đây không chỉ là công cụ quản lý mà còn là chìa khóa để nông dân tiếp cận tri thức, mở rộng đầu ra, nâng cao giá trị nông sản.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong theo dõi tiến độ, giám sát công trình, quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả đầu tư cũng giúp các cấp chính quyền minh bạch hóa thông tin, tăng cường hiệu quả giám sát cộng đồng. Những địa phương đi đầu như Hà Nam, Bắc Giang, Đồng Nai đã xây dựng hệ thống dashboard theo dõi tiến độ xây dựng NTM theo thời gian thực, giúp nâng cao hiệu quả quản trị và phối hợp đa ngành.
Tuy nhiên, bài học từ thực tế cũng cho thấy, huy động nguồn lực xã hội và ứng dụng công nghệ sẽ không hiệu quả nếu thiếu cơ chế phối hợp rõ ràng, minh bạch, có trách nhiệm giải trình và môi trường đầu tư ổn định. Nơi nào chính quyền địa phương chủ động “dọn tổ đón đại bàng”, đồng hành cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, bảo vệ lợi ích người dân nơi đó sẽ tạo ra niềm tin và thu hút được đầu tư bền vững.
Quan trọng hơn, cần có chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng “mồi”, đào tạo kỹ năng số cho nông dân và xây dựng thể chế khuyến khích xã hội hóa gắn với trách nhiệm, hiệu quả thực chất. Đây là yêu cầu cấp thiết để công nghệ và nguồn lực xã hội thực sự trở thành động lực, chứ không chỉ là khẩu hiệu.
Như Thủ tướng Phạm Minh Chính từng nói: “Muốn nông thôn phát triển nhanh và bền vững thì phải huy động được cả Nhà nước, người dân, doanh nghiệp và phải lấy đổi mới sáng tạo làm nền tảng”. Đó chính là tư duy phát triển hiện đại hội tụ cả nội lực và ngoại lực, truyền thống và công nghệ để nông thôn mới không chỉ đẹp bề ngoài mà giàu từ gốc rễ.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Phạm Minh Chính trao Huân chương Lao động hạng 3 cho 31 huyện của 12 tỉnh có thành tích nổi bật trong xây dựng nông thôn mới
Không để ai bị bỏ lại phía sau
Thông điệp xuyên suốt trong triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 cũng là mục tiêu tối thượng của mọi chính sách phát triển chính là: không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong thực tiễn triển khai, đây không chỉ là lời hiệu triệu mang tính đạo lý, mà là một yêu cầu hành động cụ thể, đòi hỏi các cấp chính quyền, cơ quan chính sách, tổ chức xã hội và cộng đồng phải cùng vào cuộc một cách trách nhiệm, kiên trì và sáng tạo.
Trong bức tranh thành tựu chung, vẫn còn không ít vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo đơn thân, người cao tuổi, trẻ em vùng sâu là những nhóm yếu thế có nguy cơ bị bỏ lại phía sau nếu thiếu cơ chế hỗ trợ đúng và đủ. Chính vì vậy, các địa phương, sau khi sáp nhập cần kiên định nguyên tắc phát triển bao trùm, ưu tiên nguồn lực cho những vùng khó khăn nhất, nhóm dân cư dễ tổn thương nhất, đồng thời xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, từ cấp cộng đồng đến cấp quốc gia.
Một bài học quan trọng là, muốn người nghèo thoát nghèo bền vững thì không chỉ trợ giúp họ về vật chất, mà cần trao cho họ cơ hội phát triển năng lực và hòa nhập xã hội. Các mô hình “giảm nghèo có địa chỉ”, “phát triển sinh kế theo nhóm hộ”, “người nghèo làm chủ dự án” đang chứng minh tính hiệu quả rõ rệt khi người dân được tham gia ngay từ khâu xây dựng kế hoạch đến giám sát và đánh giá.
Bên cạnh đó, để không ai bị bỏ lại phía sau trong thời đại số hóa và đổi mới công nghệ, việc thu hẹp khoảng cách tiếp cận công nghệ và thông tin ở nông thôn trở thành yêu cầu bức thiết. Những chương trình hỗ trợ kỹ năng số cho thanh niên nông thôn, tập huấn sử dụng công nghệ cho phụ nữ, xây dựng thư viện điện tử, điểm truy cập cộng đồng,… cần được xem như những hình thức "xóa đói thông tin", "giảm nghèo tri thức" hiệu quả.
Chính phủ cũng đang từng bước hoàn thiện thể chế để đảm bảo công bằng xã hội trong tiếp cận dịch vụ công, cơ hội việc làm, y tế, giáo dục nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Các chính sách về đất ở, đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khởi nghiệp nông thôn… nếu được triển khai đúng đối tượng, đúng thời điểm sẽ góp phần tạo đòn bẩy để các hộ nghèo “tự đứng lên từ chính đôi chân của mình”.
Như lời nhấn mạnh của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại các hội nghị quốc gia: “Không ai được phép đứng ngoài cuộc hành trình phát triển. Phải có trách nhiệm với từng người dân, đặc biệt là người yếu thế”. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi quyết sách phát triển, là thước đo của một nền chính trị nhân văn, hướng đến một xã hội bao trùm và bền vững.
“Không để ai bị bỏ lại phía sau” không chỉ là mục tiêu của chương trình nông thôn mới và giảm nghèo bền vững mà là lời cam kết của Đảng, Nhà nước với nhân dân, nhất là trong thời kỳ đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, với khát vọng “Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045”.
Hồng Minh