
Quy hoạch sử dụng đất thời 4.0: Cơ hội, thách thức và giải pháp căn cơ - Bài 1: Công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý đất đai
23/11/2023TN&MTQuy hoạch sử dụng đất là công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý, phân bổ và sử dụng đất, là cơ sở để thực hiện chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất đồng bộ với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế - xã hội, là cơ sở để giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế và tận dụng cuộc cách mạng công nghệ 4.0 vào quy hoạch sử dụng đất, các Bộ, ngành liên quan phải thống nhất quy hoạch sử dụng đất với các quy hoạch khác. Đồng thời, xây dựng bộ tiêu chí chỉ tiêu sử dụng đất, ứng dụng công nghệ 4.0 vào lập và quản lý thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Chỉ đạo sát sao từ trung ương
Vấn đề quy hoạch sử dụng đất đã được Quốc hội thông qua Luật Đất đai năm 2013 và Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã có Công văn số 4707/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 15/8/2022 về việc lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025) cấp tỉnh, lập quy hoạch sử dụng đất đến cấp huyện, nêu rõ: Quy hoạch sử dụng đất là cơ sở để giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
Theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Thời gian qua, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được thực hiện theo hướng tiếp cận tổng hợp, liên ngành và trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý, phân bố và sử dụng đất đai. Thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Nhà nước đã phân bổ đất đai đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quốc phòng - an ninh. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ sở để thực hiện chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất đồng bộ với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế - xã hội. Để giải quyết vấn đề này, Nghị quyết số 18-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đặt ra mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thời gian qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch. Công tác ban hành các văn bản liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng với nhu cầu thực tiễn, làm cơ sở pháp lý cho lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Ảnh minh họa
Thực hiện Nghị quyết số 119/NO-CP ngày 27/9/2021, hệ thống quy hoạch quốc gia cơ bản đã được trình thẩm định, phê duyệt và ban hành trong năm 2022 (gồm: 3 quy hoạch quốc gia, 39 quy hoạch ngành quốc gia, 6 quy hoạch vùng vùng, 63 quy hoạch tỉnh và các quy hoạch đô thị, nông thôn). Hệ thống quy hoạch quốc gia được lập theo Luật Quy hoạch và các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành thời kỳ 2021-2030 sẽ thay thế cho 19.285 quy hoạch các loại phải cho thời kỳ 2011-2020.
Trong đó, quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải đi trước một bước, làm cơ sở để xây dưng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quy hoạch của các ngành, lĩnh vực khác, quy hoạch vùng và địa phương, tạo tính liên kết vùng, liên kết tỉnh, bảo đảm được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững các nguồn lực. Đây là cơ hội lớn để xác định tầm nhìn, mục tiêu phát triển, sắp xếp, phân bố không gian phát triển đất nước và từng địa phương một cách bài bản, khoa học; mở ra các cơ hội, không gian phát triển mới.
Việc tham gia tiến trình kinh tế toàn cầu hóa, khu vực hóa đặt Việt Nam trước nhiều cơ hội phát triển và có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chiến lược phát triển đất nước. Điều đó tạo thuận lợi để tăng cường kết nối, thúc đẩy hợp tác và phát triển trong khu vực, phát triển kinh tế đất nước, nâng cao vị thế quốc gia; đặc biệt, tạo cơ hội quan trọng để đẩy mạnh cải cách thể chế, chuyển đổi mô hình phát triển, trong đó có hoàn thiện quy định, thể chế về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Chủ trương thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia được Đảng ta đưa ra “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 nằm 2021-2030” chính là cơ hội thúc đẩy Việt Nam tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào quá trình quản lý Nhà nước nhằm đổi mới và cải cách phương thức, thể chế, mô hình quản lý theo hướng hiện đại, trong đó có quản lý đất đai và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý đất đai
Theo nhóm nghiên cứu (Đỗ Thị Tám; Trương Đỗ Thùy Linh; Tạ Thuyết Thái; Vũ Kỳ Long, Nguyễn Thị Khuy) tại vấn đề "Quy hoạch sử dụng đất thời 4.0: Cơ hội, thách thức và giải pháp căn cơ" thì, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội để ngành quản lý đất đai nói chung và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói riêng triển khai, nghiên cứu ứng dụng công nghệ 4.0 thực hiện các tác nghiệp kỹ thuật trong công tác quản lý, sử dụng đất kịp thời, đầy đủ, chính xác và có hiệu quả. Giải quyết được vấn đề cung cấp thông tin và chia sẻ dữ liệu từ địa phương với trung ương và ngược lại một cách nhanh chóng và đồng bộ. Đồng thời, làm tăng tính sáng tạo hiệu quả năng suất lao động.
Ở độ khác, phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới và kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Việt Nam đã quốc gia hóa Chương trình Nghị sự 2030 của toàn cầu thành “Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030” với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện và ưu tiên phát triển của quốc gia. Kế hoạch này mở ra cơ hội hoàn thiện công tác lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng bến vững, đáp ứng mục tiêu quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được triển khai đồng bộ ở các cấp đã thực sự trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý đất đai. Đặc biệt, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện là căn cứ quan trọng để thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, việc phân bổ đất đai đáp ứng nhu cầu cho phát triển kinh tế xã hội; bảo vệ quốc phòng, an ninh và sử dụng đất hiệu quả, bền vững. Trên cơ sở các chỉ tiêu phân bổ của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất đã được lập, phê duyệt và triển khai thực hiện.
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng, quản lý đất đai tốt hơn
Để sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, bền vững và chủ động ứng phó với biến đối khí hậu, Quốc hội đã thông qua điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) cấp quốc gia. Theo đó, đã xác định diện tích đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng cần bảo vệ và diện tích đất lúa được chuyển đổi linh hoạt bảo đảm khi cần thiết có thể lại trồng lúa. Ban hành chính sách điều tiết phân bổ nguồn lực để đảm bảo lợi ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương giữ nhiều đất trồng lúa; rà soát quy hoạch 3 loại rừng và quy hoạch bảo vệ phát triển rừng; ban hành bộ tiêu chí rà soát diện tích đất rừng phòng hộ đầu nguồn, ít xung yếu chuyển sang quy hoạch đất sản xuất.Theo đó, diện tích đất được quy hoạch cho phát triển đô thị tăng; tỷ lệ đô thị hoá tăng từ 30,5% năm 2010 lên khoảng 40% năm 2020, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước.
Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể thủy lợi vùng đồng bằng sông Hồng, khu vực miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu. Để phát huy lợi thế cạnh tranh và sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương rà soát, cắt giảm các khu công nghiệp sử dụng nhiều đất canh tác tại khu vực đồng bằng nhưng chưa có nhà đầu tư; xem xét bổ sung mở rộng các khu công nghiệp tại các tỉnh Trung du và miền núi, dọc tuyến đường Hồ Chí Minh để phát huy hệ thống cơ sở hạ tầng và giảm áp lực tại khu vực đồng bằng. Chính phủ đã điều chỉnh chỉ tiêu sử dụng đất khu công nghiệp, đất ở đô thị tại một số địa phương (tăng chỉ tiêu sử dụng đất khu công nghiệp lên 10.896 ha và tăng đất ở tại đô thị lên 5.174ha). Hoạt động sắp xếp lại nhà, đất, thực hiện di dời cơ sở sản xuất ra khỏi trung tâm thành phố được thực hiện liên tục, có kế hoạch, hiệu quả.
Chỉ tiêu sử dụng đất ở mỗi cấp hành chính được xác định theo hướng chỉ tiết dần từ vĩ mô xuống cấp vi mô, tăng tính liên kết vùng trong sử dụng đất; khắc phục được tình trạng trùng lắp về chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất của các cấp; đồng thời thể hiện được tính định hướng của quy hoạch sử dụng đất cấp trên, tính chi tiết cụ thể của quy hoạch sử dụng đất cấp dưới, tạo điều kiện cho cấp dưới chủ động trong hoạch định phương án sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhất Nam