
Xu hướng phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
11/06/2025TN&MTThế giới ngày nay trong bối cảnh hội nhập và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó, bài toán tối ưu trong quá trình sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại có tính đặc thù về các yếu tố đầu vào và đầu ra là yếu tố sống còn để đáp ứng nhu cầu lương thực của người dân.
Theo thống kê, trên thế giới hiện có khoảng từ 30 - 50% lượng lương thực sản xuất ra đang bị tổn thất và sử dụng lãng phí, trong khi vẫn còn nhiều người bị thiếu ăn và chết đói. Để giải quyết thực trạng này, xu hướng phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông - lâm - thủy sản (NLTS) trên thế giới theo hướng hiện đại với mức tự động hóa cao đáp ứng mục tiêu giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng, giá trị và an toàn thực phẩm.
Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, nền nông nghiệp nước ta đã có bước tăng trưởng vượt bậc. Tuy nhiên, tồn tại lớn nhất vẫn là mức tổn thất sau thu hoạch còn cao, giá trị sản phẩm nông nghiệp thấp và còn tiềm ẩn rủi ro về an toàn thực phẩm, do vậy định hướng thúc đẩy phát triển công nghiệp bảo quản chế biến NLTS trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu hướng tất yếu.
Kiểm tra quy trình bảo quản, đóng gói vải trước khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
Mới đây, tổ chức Vietnam Supply Chain tổ chức Hội nghị “Quản trị chuỗi cung ứng lạnh - mát và chuỗi cung ứng nông nghiệp tại Việt Nam” nhằm kết nối doanh nghiệp, chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra cái nhìn tổng quan về những vấn đề còn tồn tại và giải pháp trong quản trị chuỗi cung ứng ngành nông nghiệp và cung ứng lạnh - mát tại Việt Nam. Theo đánh giá, hiện nay tỷ lệ tổn thất trung bình trong quá trình thu hoạch, chế biến, lưu trữ và vận chuyển nông sản ở Việt Nam hiện còn ở mức cao từ 25 - 30%, thậm chí một số loại rau quả ở những thời điểm dư thừa, rớt giá tỷ lệ này có thể tăng lên 45%.
Theo PGS.TS. Phạm Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Cơ điện và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nguyên nhân chính là do năng lực quản lý, đầu tư và vận hành chuỗi cung ứng lạnh còn nhiều bất cập và thiếu tính đồng bộ, cụ thể: Công tác quản lý chất lượng trong sản xuất, sơ chế, bảo quản và chế biến chưa chặt chẽ, ý thức của người dân và doanh nghiệp chưa cao, thay vì sử dụng dịch vụ bảo quản lạnh theo chuỗi, giải pháp lựa chọn bằng sử dụng hóa chất để giảm chi phí. Bên cạnh đó, hiện nay còn thiếu các doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống chuỗi cung ứng lạnh (tổng kho lạnh, xe lạnh, tàu lạnh và trang thiết bị chuyên dụng quản lý chuỗi). Nguyên nhân là do môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, mạng lưới cơ sở hạ tầng và liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ còn manh mún,...
PGS.TS. Phạm Anh Tuấn cho rằng, cần đẩy mạnh hơn nông nghiệp thông minh trong chế biến NLTS đáp ứng nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu
Xu hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới đã trở thành một ngành có tính định hướng thị trường ngày càng cao, đặc biệt cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hay còn gọi là “Nông nghiệp thông minh” góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng dịch vụ. Hiện nay, ở một số nước phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Pháp... đã sử dụng các thiết bị thông minh được kết nối mạng internet dựa trên nền tảng công nghệ thông tin để quản lý theo chuỗi từ người nông dân đến các doanh nghiệp sơ chế biến và phân phối sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm, hiệu quả và bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xu hướng phát triển công nghệ bảo quản của chuỗi cung ứng lạnh theo hướng đầu tư các giải pháp công nghệ mới ứng dụng trong các hệ thống bảo quản, vận chuyển lạnh và lạnh đông kết nối hệ thống kiểm soát, định vị và truy xuất nguồn gốc sản phẩm trong chuỗi cung ứng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng đặt ra của mỗi quốc gia...
Đối với Việt Nam, theo PGS.TS. Phạm Anh Tuấn, giải pháp để thúc đẩy phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến NLTS trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trên tinh thần nhà nước và doanh nghiệp cùng làm đó là, hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ với quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường, phù hợp với đặc thù và lợi thế so sánh của các vùng miền, tạo môi trường thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chuỗi cung ứng lạnh nội địa kết nối chuỗi cung ứng lạnh toàn cầu.
Dây chuyền thiết bị giết mổ, bao gói bảo quản gà, công suất 300 - 400 con/giờ
Mặt khác cần có cơ chế chính sách đặc thù nhằm thu hút các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI đầu tư vào các công nghệ nền trong lĩnh vực chế biến NLTS là trung tâm kết nối các nhà sản xuất và phân phối theo chuỗi giá trị. Cần nghiên cứu, đánh giá thực trạng và trình độ ứng dụng công nghệ của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực bảo quản chế biến các mặt hàng NLTS tùy theo đặc thù và lợi thế so sánh của mỗi vùng/địa phương làm cơ sở đề xuất chính sách hỗ trợ tăng cường năng lực đổi mới và phát triển công nghệ bao gồm: Hỗ trợ nghiên cứu, đổi mới công nghệ; Hỗ trợ tiếp nhận, cải tiến, hoàn thiện và làm chủ công nghệ; Hỗ trợ xây dựng các tiêu chuẩn tiên tiến cho sản phẩm, quản lý quy trình sản xuất và môi trường; Hỗ trợ doanh nghiệp liên kết với các tổ chức KHCN; Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng các TBKT là kết quả nghiên cứu từ các viện nghiên cứu, trường đại học.
Về khoa học công nghệ (giai đoạn 2025 - 2030) nhà nước cần ưu tiên cho thực hiện Chương trình KH và CN trọng điểm cấp Nhà nước về “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến NLTS sau thu hoạch” với mục tiêu đưa vào ứng dụng được những công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng cho các mặt hàng NLTS Việt Nam. Trong đó, cần đổi mới cơ chế quản lý đặc thù đối với các nhiệm vụ “giải mã công nghệ” nhằm khuyến khích các nhà khoa học phát huy sáng tạo đưa ra những sản phẩm khoa học có tính mới và canh tranh so với công nghệ nhập khẩu. Đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ tăng cường năng lực nghiên cứu và đào tạo đối với các viện nghiên cứu, trường đại học về lĩnh vực chuyên ngành bảo quản chế biến NLTS, thông qua các hoạt động đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu tiên tiến, các chương trình đào tạo trong và ngoài nước,…
Sản phẩn cá ngừ của Công ty Bá Hải (Phú Yên) được cấp đông nhanh trực tiếp bằng chất tải lạnh lỏng
Để nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo phù hợp với cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của các viện nghiên cứu, trường đại học cần tăng cường các hoạt động kết nối cung - cầu về khoa học công nghệ, thông qua đó các nhà khoa học giới thiệu được các sản phẩm khoa học của mình đến với các doanh nghiệp, mặt khác các doanh nghiệp có cơ hội được tư vấn và lựa chọn công nghệ có tính tiên tiến và phù hợp để đáp ứng cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 để phát triển ngành nông nghiệp và đáp ứng kỷ nguyên vươn mình của đất nước.
Lê Mạnh Hải