
Bình Phước: HIệu quả bảo vệ rừng từ mô hình áp dụng chính sách chi trả dịch vụ môi trường
10/10/2022TN&MTChính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng ra đời đã huy động các nguồn lực xã hội để thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, góp phần cải thiện sinh kế, ổn định đời sống của những người làm nghề rừng tại Bình Phước.
Sử dụng mọi nguồn lực để giữ rừng
Năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Phước, sau nhiều năm triển khai cho thấy, chính sách trên là hướng đi đúng đắn, kịp thời, mang lại hiệu quả rõ rệt trên các khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội.
Xây dựng được mô hình có sức hấp dẫn đối với người dân nhận khoán trồng rừng.
Ông Điểu Ma Giang, Tổ trưởng Đội 1 bảo vệ rừng thôn 3, xã Đắk Ơ, huyện biên giới Bù Gia Mập cùng cộng đồng gồm gần 100 thành viên tham gia bảo vệ khoảng 2.700 ha rừng thuộc Vườn Quốc gia Bù Gia Mập. Ngoài công việc làm nương rẫy của gia đình, các thành viên Tổ bảo vệ rừng tham gia công tác tuần tra, bảo vệ rừng, vừa chung tay giữ rừng, vừa góp phần tăng thu nhập.
“Công việc của các thành viên là luân phiên chia nhau trực, tuần tra, bảo vệ rừng. Diện tích rừng mà Tổ tham gia bảo vệ đã không xảy ra cháy rừng và các vụ vi phạm, xâm hại rừng”, ông Điểu Ma Giang cho biết.
Theo ông Điểu Ma Giang, hiện nay, các thành viên Tổ tuần tra mỗi quý đều được nhận tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng. Số tiền tuy không lớn nhưng đã tạo động lực cho các thành viên và cộng đồng cùng chung tay bảo vệ rừng tốt hơn.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước, từ năm 2018 đến nay, trung bình mỗi năm tỉnh thu được khoảng 32 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng từ các đơn vị sử dụng dịch vụ rừng. Nguồn thu này đã giúp huy động được nguồn lực hỗ trợ cho công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng. Qua đó, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học và tăng cường chức năng bảo vệ đất, nguồn nước, không khí.
Khảo sát của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2021, diện tích rừng trên địa bàn tỉnh khoảng 171.642 ha. Trong đó, diện tích rừng tự nhiên khoảng 55.850 ha, rừng trồng 102.186 ha, diện tích đất chưa có rừng khoảng 15.100 ha. Diện tích rừng phân bố chủ yếu ở huyện Bù Đăng 58.483 ha, huyện Bù Gia Mập 49.639 ha, huyện Lộc Ninh 23.985 ha, huyện Đồng Phú 20.316 ha…
Tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng
Địa bàn tỉnh Bình Phước hiện có 16 nhà máy thủy điện, 39 nhà máy, xí nghiệp sản xuất và cung ứng nước sạch, các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng dịch vụ môi trường rừng.
Tính từ năm 2013 đến năm 2021, tỉnh thu được hơn 244 tỷ đồng đối với các cơ sở sử dụng dịch vụ môi trường rừng như: nhà máy thủy điện, cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch, cơ sở sử dụng nguồn nước phục vụ sản xuất công nghiệp. Tỉnh đã chi hơn 219 tỷ đồng cho các đơn vị chủ rừng có cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Mở rộng được sinh kế cho người trồng rừng để giữ màu xanh cho những cánh rừng Bình Phước.
Theo đánh giá, nguồn kinh phí trên đã góp phần tăng thêm thu nhập cho người làm nghề rừng, khuyến khích nhân dân nhận khoán, tham gia quản lý, bảo vệ rừng tốt hơn, hạn chế tình trạng phá rừng và lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép. Qua đó, môi trường rừng từng bước được cải thiện, tăng khả năng phòng hộ, điều tiết và duy trì nguồn nước cho các cơ sở sử dụng dịch vụ môi trường rừng.
“Đây là phương thức hiệu quả trong công tác bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, cải thiện sinh kế, nâng cao thu nhập, làm giàu từ rừng cho cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, người dân sống ở gần rừng”, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Phước đánh giá.
Ông Nguyễn Văn Long, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Bình Phước cho biết, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng được tỉnh triển khai từ năm 2013 đến nay đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc góp phần quản lý, bảo vệ rừng tại địa phương. Trong đó, thực hiện chính sách trên đã hỗ trợ cho các chủ rừng nguồn kinh phí phục vụ công tác quản lý, bảo vệ rừng, trong khi nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước chi cho công tác này còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc chi trả dịch vụ môi trường rừng đã huy động sự chung tay góp sức của cộng đồng dân cư, hộ gia đình, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại các địa phương có rừng tham gia, qua đó nâng cao hiệu quả trong việc quản lý, bảo vệ rừng.
Trước đây,khi chưa thực hiện dịch vụ chi trả môi trường rừng, tình trạng người dân xâm canh, lấn chiếm rừng xảy ra khá phổ biến. Khi thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, người dân đã trực tiếp cùng tham gia quản lý và bảo vệ rừng. Nhờ đó rừng được bảo vệ tốt hơn, các vụ vi phạm lâm nghiệp, xâm canh, lấn chiếm rừng giảm rõ rệt.
Đơn giá chi trả dịch vụ môi trường rừng năm sau đều tăng so với năm trước. Vì vậy, việc tham gia quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng ngày càng tốt hơn - ông Nguyễn Văn Long cho biết thêm.
Theo Cục Thống kê tỉnh Bình Phước, tình hình vi phạm trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trong 9 tháng năm 2022 trên địa bàn giảm rõ rệt. Tổng số vụ vi phạm lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản là 30 vụ, giảm 21 vụ so với năm 2021. Cũng thời gian này, các đơn vị trên địa bàn đã triển khai trồng được 403 ha rừng, tăng 41 ha so với cùng kỳ năm 2021.
Trong khi báo cáo của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam, năm 2020, tổng diện tích rừng được hỗ trợ quản lý bằng tiền dịch vụ môi trường rừng của cả nước là là 6,5 triệu ha, chiếm 44% tổng diện tích rừng toàn quốc, trong đó 2,7 triệu ha của chủ rừng là tổ chức khoán quản lý bảo vệ cho 30.233 cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, nhóm hộ và tổ chức khác.
Bình Phước là một trong những địa phương triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng khá sớm. Năm 2013, UBND tỉnh đã triển khai thực hiện đề án chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn. Thông qua việc triển khai đề án đã góp phần chuyển biến tích cực trong công tác bảo vệ, phát triển rừng tại địa phương.
Đỗ Hùng - Bảo Bảo