
Nâng cao vai trò công tác quy hoạch tài nguyên nước và thủy lợi, kiến tạo nền tảng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long trong kỷ nguyên mới
13/08/2025TN&MTPhát triển của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) luôn gắn chặt với hệ thống thủy lợi, đặc biệt trong 50 năm qua, từ 1975 đến nay. Hệ thống thủy lợi không những đóng vai trò là nền tảng điều tiết và phân phối tài nguyên nước, mà còn là cơ sở vững chắc để bảo vệ và phòng chống thiên tai (PCTT), đặc biệt là dưới tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH). Qua nhiều giai đoạn, công tác quy hoạch thủy lợi đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào việc điều phối nước ngọt cho khắp đồng bằng, kiểm soát lũ từ thượng lưu và ngập úng do mưa lớn, thau chua và rửa phèn, kiểm soát mặn và triều cường, đưa ĐBSCL trở thành trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước, đóng góp tới hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản và 95% lượng gạo xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, công tác quy hoạch đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn và chưa từng có tiền lệ. Vùng ĐBSCL đang phải đối mặt với tác động kép từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng, và các hoạt động khai thác thượng nguồn sông Mê Công. Gần 20 năm qua, an ninh nguồn nước của vùng ngày càng mất ổn định do phụ thuộc gần như tuyệt đối vào dòng chảy và phát triển từ bên ngoài. Bên cạnh đó, gia tăng nhanh nhu cầu nước và phát triển không ngừng hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác trên khắp nội tại đồng bằng... Những yếu tố này đã làm trầm trọng thêm tình trạng lũ và nguồn phù sa, hạn hán và xâm nhập mặn, xói lở bờ sông và sạt lở bờ biển, sụt lún đất và ô nhiễm nguồn nước..., gây áp lực nặng nề lên cấp nước, PCTT và sinh kế của hơn 20 triệu người dân, trong đó phần lớn sống dựa vào nông nghiệp và thủy sản.
Bối cảnh đó đòi hỏi một sự chuyển đổi sâu sắc trong tư duy và hành động. Chúng ta không còn tiếp cận theo hướng đối phó bị động, mà phải chuyển sang tư duy chủ động thích ứng và hành động cần thiết. Tuy vẫn “thuận thiên” nhưng có kiểm soát”; "chung sống với lũ”, “sống chung với mặn” nhưng biết sống và sản xuất thông minh, như tinh thần Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ và đặc biệt là Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về Phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quy hoạch thủy lợi giờ đây phải giữ vai trò "đi trước mở đường", kiến tạo một khung phát triển bền vững, hài hòa giữa các ngành kinh tế, giữa con người và tự nhiên, giữa hiện tại và tương lai, giữa ĐBSCL và cả nước, đáp ứng “Kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam trong thời đại mới”. Sự thay đổi về khung pháp lý, đặc biệt là việc triển khai Luật Tài nguyên nước 2023 và định hướng hợp nhất các quy hoạch ngành nước theo tinh thần Nghị quyết 108/NQ-CP, đã tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, đồng thời đặt ra yêu cầu phải thay đổi toàn diện về phương pháp luận và cách tiếp cận.
1. Các trụ cột chính trong công tác quy hoạch thủy lợi và tài nguyên nước hiện nay
Để giải quyết các thách thức trên, công tác quy hoạch thủy lợi và tài nguyên nước tại ĐBSCL đang được triển khai dựa trên các trụ cột chính sau:
• Một là, quy hoạch chiến lược, tích hợp liên ngành - liên vùng, lấy lưu vực làm đơn vị chính để phân bổ nước hiệu quả, hài hòa các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh nguồn nước.
• Hai là, khai thác và phát triển bền vững hệ thống thủy lợi phục vụ điều tiết nước linh hoạt, khai thác tổng hợp nước ngọt - lợ - mặn, phục vụ đa mục tiêu: sản xuất, dân sinh, giao thông, môi trường, phòng chống thiên tai.
• Ba là, ứng dụng khoa học - công nghệ và dữ liệu số, đặc biệt là mô hình thủy văn - thủy lực, hệ thống thông tin địa lý (GIS), viễn thám, AI, IoT... phục vụ phân tích, dự báo và ra quyết định chính xác.
• Bốn là, thúc đẩy các giải pháp dựa vào thiên nhiên (NbS), kết hợp công trình và phi công trình, nâng cao khả năng chống chịu tự nhiên và phát triển sinh kế bền vững.
• Năm là, hoàn thiện thể chế, cơ chế phối hợp, phân cấp quản lý, huy động nguồn lực xã hội, đối tác công tư (PPP) và quốc tế.
Đây chính là năm trụ cột vững chắc, đảm bảo cho công tác quy hoạch đi đúng hướng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long.
2. Các giải pháp đột phá và định hướng tương lai
Để nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng hệ thống thủy lợi đồng thời nâng cao vai trò công tác quy hoạch tài nguyên nước và thủy lợi, kiến tạo nền tảng phát triển bền vững cho ĐBSCL trong kỷ nguyên mới, cần phải có giải pháp đột phá đồng thời mang tính định hướng cao trong tương lai. Cụ thể:
2.1. Hợp nhất một số quy hoạch: Theo Nghị quyết 108/NQ-CP, một số quy hoạch ngành nước đang có sự giao thoa, chồng chéo, trùng lắp cần hợp nhất, đồng bộ theo hướng tích hợp đa ngành, đa mục tiêu, theo không gian lưu vực. Cần xây dựng bộ khung tích hợp duy nhất cho quy hoạch thủy lợi - tài nguyên nước - đê điều - phòng chống thiên tai tại ĐBSCL.
2.2. Chuyển đổi số toàn diện: Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong điều tra cơ bản, mô phỏng thủy văn, giám sát vận hành công trình, cảnh báo, dự báo mặn - lũ - hạn. Xây dựng hệ thống dữ liệu mở, kết nối liên vùng, phục vụ điều hành thông minh.
2.3. Phát triển hệ thống thủy lợi đa chức năng - liên kết vùng: Đầu tư hệ thống kiểm soát nguồn nước theo từng vùng vùng với quy mô lớn (Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán đảo Cà Mau, Ven biển Đông và biển Tây), đảm bảo liên kết vùng sinh thái ngọt - lợ - mặn; đồng bộ từ công trình đầu mối, đê bao, cống, kênh, trạm bơm; kết hợp hạ tầng thủy lợi với hạ tầng giao thông, xây dựng để nâng cao hiệu quả đầu tư.
2.4. Tăng cường thể chế và nguồn lực: Đẩy mạnh phân cấp quản lý, phát huy vai trò tổ chức dùng nước, đơn vị khai thác công trình. Sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn - hiệu quả. Huy động tài chính khí hậu, ODA, PPP cho các dự án ưu tiên trong chuyển đổi mô hình thủy lợi.
2.5. Định hướng đột phá chiến lược giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến 2045:
Căn cứ các văn bản chiến lược, quy hoạch đã ban hành cũng như đang dự thảo, có 7 đột phá chiến lược cần tập trung:
1) Hợp nhất và tích hợp quy hoạch ngành nước đa ngành - liên vùng.
2) Chuyển đổi số toàn diện ngành thủy lợi.
3) Phát triển hạ tầng thủy lợi đa chức năng, linh hoạt, thích ứng.
4) Đầu tư hệ thống kiểm soát mặn chủ động, bảo vệ vùng ngọt.
5) Tăng cường giải pháp dựa vào thiên nhiên, phục hồi không gian nước.
6) Nâng cao năng lực tổ chức quản lý - vận hành.
7) Tăng cường hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực tài chính khí hậu.
Tầm nhìn đến 2045: Vùng ĐBSCL hình thành hệ thống thủy lợi thông minh, điều tiết chủ động, quản trị nước bền vững, phục vụ phát triển nông nghiệp sinh thái và kinh tế xanh, đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia.
Từ thực tiễn công tác tại cơ sở, để tạo ra sự đột phá trong giai đoạn tới, chúng tôi xin trân trọng đề xuất một số kiến nghị với Đại hội, với Đảng ủy Bộ như sau:
- Một là, lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt việc hoàn thiện thể chế và hợp nhất quy hoạch ngành nước. Tình hình thực tiễn đòi hỏi phải có sự thay đổi căn cơ trong cách tiếp cận quy hoạch. Tuy nhiên, việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn do các quy định pháp luật liên quan cần tiếp tục được điều chỉnh để đảm bảo tính đồng bộ. Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết 108/NQ-CP của Chính phủ, việc nghiên cứu hợp nhất các loại quy hoạch liên quan đến nước là một chủ trương lớn, mang tính cách mạng. Kính đề nghị Đảng ủy Bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt việc rà soát, sửa đổi các luật liên quan, đồng thời chỉ đạo sát sao việc nghiên cứu, xây dựng mô hình quy hoạch tích hợp đa ngành về tài nguyên nước, thủy lợi để sớm đưa chủ trương của Chính phủ vào thực tiễn.
- Hai là, ưu tiên nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ và chuyển đổi số, xem đây là giải pháp đột phá. Công tác quy hoạch và quản lý tài nguyên nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải dựa trên nền tảng công nghệ cao và dữ liệu lớn. Kính đề nghị Đảng ủy Bộ lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và triển khai một chương trình tổng thể về chuyển đổi số, ưu tiên đầu tư ngân sách để hiện đại hóa trang thiết bị, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong dự báo và điều hành, nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về năng lực quản lý.
- Ba là, có chính sách đặc thù để xây dựng, phát triển và giữ chân đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Nhiệm vụ trong lĩnh vực thủy lợi, tài nguyên nước ngày càng phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán bộ không chỉ có trình độ chuyên môn cao mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng và kỹ năng làm việc quốc tế. Trong khi đó, đảm bảo được việc làm ổn định nhằm cải thiện thu nhập vẫn còn là một thách thức. Đề nghị Đảng ủy Bộ chỉ đạo nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thu hút, đào tạo và giữ chân đội ngũ chuyên gia, có các chương trình đào tạo chuyên sâu và chính sách đãi ngộ tương xứng.
- Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới. Với 95% nguồn nước của ĐBSCL đến từ bên ngoài, hợp tác quốc tế là yếu tố sống còn. Đề nghị Đảng ủy Bộ quan tâm, chỉ đạo việc chủ động và tích cực hơn nữa trong các cơ chế hợp tác sông Mê Công, thúc đẩy chia sẻ thông tin, dữ liệu minh bạch và kịp thời, hướng tới các thỏa thuận công bằng về quản lý tài nguyên nước.
Bên cạnh đó, một số giải pháp kỹ thuật cụ thể xin đề xuất như sau:
* Giải pháp về tiêu thoát nước:
ĐBSCL là vùng chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều, các hệ thống thủy lợi được đầu tư có thể lợi dụng biên độ triều lớn, kết hợp vận hành công trình hợp lý để gia tăng khả năng tiêu tự chảy. Phần lớn diện tích ĐBSCL có khả năng tiêu tự chảy tốt, trừ phần diện tích trũng thấp, hoặc các vùng cần tiêu lũ để xuống giống sớm (vùng ngọt), hỗ trợ tiêu mưa. Giải pháp thủy lợi phục vụ tiêu nước gồm:
- Nạo vét các trục tiêu nước.
- Hoàn thiện hệ thống nội đồng (ô bao, cống bọng khép kín) để hỗ trợ tiêu.
- Xây dựng các trạm bơm điện vừa và nhỏ cho các vùng không tiêu tự chảy được.
* Giải pháp về kiểm soát lũ:
Thực hiện quan điểm “Chủ động sống chung với lũ, nước lợ, nước mặn”, các giải pháp chủ động kiểm soát lũ bao gồm:
- Nâng cấp hệ thống đê bao theo quy mô nhỏ đủ bảo đảm an toàn với mức lũ báo động III (Mực nước tại Tân Châu 4,0 - 4,5m).
- Đầu tư các tuyến công trình kiểm soát lũ đầu mối (Dọc sông Hậu, dọc sông Tiền, dọc tuyến Tân Thành - Lò Gạch, cống Vàm Cỏ). Các công trình này có nhiệm vụ kiểm soát lượng lũ từ sông chính chảy vào nội đồng ở mức tương đương lũ tại Tân Châu 4,0 ÷ 4,5m, bảo đảm an toàn cho các khu vực sản xuất.
- Đầu tư các tuyến đê dọc bờ hữu sông Hậu và bờ tả sông Tiền, kết hợp với các cống đầu kênh tạo thành tuyến kiểm soát lũ.
- Xây dựng 2 tràn Trà Đư, tràn Trung Tâm trên Đường tỉnh 841 và 2 cầu trên đường tuần tra biên giới khu vực Tứ Thường để tăng cường khả năng thoát lũ tràn biên giới, giảm áp lực lũ cho vùng Đồng Tháp Mười.
- Nạo vét các trục kênh thoát lũ từ sông Tiền sang sông Vàm Cỏ Tây, từ sông Hậu sang phía biển Tây và các trục thoát lũ ra sông Tiền vùng Đồng Tháp Mười.
- Các khu đô thị, dân cư tập trung: Kết hợp giải pháp san nền và sử dụng hệ thống đê bao, cống, trạm bơm để bảo vệ.
- Các điểm dân cư phân tán: Bố trí thành các cụm tuyến dân cư vượt lũ, hoặc khuyến khích người dân dùng hình thức nhà trên cọc, nhà nổi...
* Giải pháp về kiểm soát mặn:
- Giai đoạn đến 2030: Chủ động kiểm soát mặn vào nội đồng bằng các công trình ven sông chính:
+ Trên sông Hậu: Xây dựng các cống thuộc khu vực Kế Sách, âu thuyền Đại Ngãi, Mỹ Xuyên.
+ Trên sông Tiền: Xây dựng các cống trên Đường tỉnh 864 (đến Cái Bè).
+ Hoàn thiện các cống của hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre (Các cống: Bến Tre, An Hóa, Thủ Cửu, Vàm Nước Trong, Cái Quao).
+ Hoàn thiện các công trình phân ranh mặn ngọt cho vùng Quản Lộ - Phụng Hiệp, Cái Lớn - Cái Bé, Nam QL80 An Giang...
- Giai đoạn sau 2030: Kiểm soát nguồn nước bằng các cống lớn cửa sông như Hàm Luông, Vàm Cỏ, Cổ Chiên, Cung Hầu... bởi mặn có nguy cơ tiếp tục xâm nhập sâu hơn.
Các cống này sẽ có nhiệm vụ kiểm soát không cho ngưỡng mặn vượt quá các công trình đã xây dựng trên dòng chính, hỗ trợ việc lấy nước ngọt vào các dự án ven biển, ngăn nước dâng do triều cường, bão, hỗ trợ việc tiêu thoát nước.
* Các công trình khác:
- Nâng cấp hệ thống đê biển và các cống dưới đê (theo từng tiểu vùng): Quy mô và các kích thước tuyến đê bảo đảm chống được bão cấp 9, cấp 10, tần suất mực nước triều 5%.
- Đầu tư các công trình chống sạt lở bờ sông, kênh, bờ biển tại các vị trí quan trọng.
- Đầu tư các dự án gây bồi, tạo bãi, phát triển rừng ngập mặn.
- Xây dựng cống Gành Hào, Ông Đốc: Các cống có nhiệm vụ cùng tuyến đê biển tạo thành tuyến ngăn nước, phòng chống thiên tai từ biển, giảm ngập cho vùng Bán đảo Cà Mau, hỗ trợ tiêu thoát nước.
- Đầu tư các công trình chống ngập úng cho các đô thị lớn.
- Giúp khắc phục hay giảm nhẹ tác động của phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác lên vùng ĐBSCL, như các tuyến cao tốc Trung Lương - Cà Mau, Châu Đốc - Sóc Trăng,...
Chúng tôi tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ủy Bộ, công tác quản lý tài nguyên nước và quy hoạch thủy lợi sẽ có những bước phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.
Tham luận của Đảng bộ Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam