
Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Triển khai 7 nhiệm vụ then chốt, tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ
05/05/2025TN&MTViệc triển khai đồng bộ 7 nhiệm vụ then chốt này được kỳ vọng sẽ tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, đưa khoa học công nghệ trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam.
Công nghệ cao thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh mẽ
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng Chuyển đổi số, lần đầu tiên tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, khoa học công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được đặt lên vị trí “là đột phá quan trọng hàng đầu” với những mục tiêu quan trọng, cụ thể cùng các giải pháp quyết liệt chưa từng có.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội; Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ; ngày 27/03/2025, Bộ Nông nghiệp và Mội trường đã ban hành Quyết định số 503/QĐ-BNNMT về Kế hoạch đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; trong đó, tập trung vào 7 nhiệm vụ then chốt để tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của ngành, đó là:
Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong toàn ngành Nông nghiệp và Môi trường về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; trong đó, xây dựng kế hoạch và tổ chức điều chỉnh, bổ sung yêu cầu vị trí việc làm đối với lãnh đạo cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, bảo đảm tối thiểu 25% tổng số lãnh đạo các cơ quan, đơn vị có chuyên môn, kinh nghiệm về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; định kỳ hàng năm đánh giá, xếp hạng chuyển đổi số (DTI) các đơn vị, người đứng đầu và cán bộ, công chức, viên chức theo các chỉ số phát triển.
Hoàn thiện thể chế, đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; trong đó, tập trung: (i) Rà soát, sửa đổi, bổ sung 17 Luật chuyên ngành Nông nghiệp và Môi trường nhằm đảm bảo sự thống nhất, kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và chủ động hội nhập quốc tế. (ii) Rà soát điều chỉnh các quy trình nội bộ trên hệ thống điện tử để thay thế giấy tờ khi thực hiện các thủ tục hành chính; cắt giảm các thành phần hồ sơ khi số liệu đã được số hoá; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật của từng lĩnh vực của ngành nông nghiệp và môi trường, đảm bảo phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chủ động hội nhập quốc tế.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang quản lý 1.832 TCVN và 175 QCVN (lĩnh vực nông nghiệp có 1.464 TCVN và 103 QCVN; lĩnh môi trường có 368 TCVN và 72 QCVN); trong đó, từ năm 2021-2024, Bộ đã ban hành mới 475 TCVN và 57 QCVN; đồng thời, đã rà soát, cắt giảm 149 QCVN theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hệ thống TCVN và QCVN đã cơ bản bao quát đầy đủ các chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành. Tuy nhiên, Bộ đã chỉ đạo tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn theo hướng đồng bộ, hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực đối với nhóm sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu cũng như xây dựng tiểu chuẩn, quy chuẩn đối với các nhóm sản phẩm mới, chủ lực
Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; trong đó tập trung: (i) Thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo vào quản lý nông nghiệp; Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số trong sản xuất (blockchain truy xuất nguồn gốc, IoT giám sát môi trường, AI dự báo dịch bệnh, thời tiết); (ii) Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường; xây dựng, vận hành hệ thống thông tin đất đai (MPLIS), số hóa hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia và các cơ sở dữ liệu quan trọng, cấp bách tạo nền tảng phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, đô thị thông minh.
Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đặc biệt là việc thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các ‘tổng công trình sư’ trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ quốc gia về KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực. Đồng thời, đổi mới công tác quản lý hoạt động khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành trong giai đoạn mới; trong đó, chú trọng đối mới phương thức thực hiện nhiệm vụ KHCN theo cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược đáp ứng nhu cầu nhân lực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ; nâng cao hiệu quả quản trị ngành, lĩnh vực, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh; trong đó, tập trung nâng cao chất lượng, đẩy mạnh loại hình cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình; cấp giấy phép tự động, cung cấp dịch vụ số mới được cá nhân hóa, dựa trên dữ liệu cho người dân và doanh nghiệp; phấn đấu bảo đảm mục tiêu của Chính phủ đến năm 2030 đạt, đảm bảo trên 90% thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp được thực hiện trực tuyến, thông suốt, hiệu quả. Phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích, cảnh báo thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh, tạo điều kiện cho phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp, khai thác bền vững tài nguyên. Tạo điều kiện, thúc đẩy các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, tài trợ, tăng cường nghiên cứu các công nghệ số, phát triển các nền tảng số, hoạt động dữ liệu số, tạo ra các dịch vụ, nội dung số.
Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp về nông nghiệp và môi trường, như việc rà soát, đề xuất chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp, ưu tiên đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Đẩy mạnh chuyển giao tri thức, đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thông qua doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Từ năm 2021 - 2025, tổng cộng trên 1.201 chương trình, dự án, đề án, nhiệm vụ khoa học công nghệ (gọi chung là nhiệm vụ KHCN) đã và đang được triển khai. Nhiều nhiệm vụ KHCN tạo ra sản phẩm cuối cùng và được cơ quan thẩm quyền chấp nhận, chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất, phục vụ công tác quản lý, đóng góp vào tăng hiệu quả kinh tế khoảng 30%, cụ thể: (i) Sản phẩm KHCN làm cơ sở để xây dựng các dự án luật, các văn bản hướng dẫn thi hành luật; định hướng cho công tác xây dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch quốc gia, TCQC; (ii) Làm luận cứ phục vụ điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát, xây dựng quy hoạch, kế hoạch trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường; (iii) Tạo ra các giống cây trồng vật nuôi, tiến bộ kỹ thuật, giải pháp hữu ích, quy trình công nghệ, công nhận được 461 giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp; 216 tiến bộ kỹ thuật; 34 bằng độc quyền sáng chế và 19 giải pháp hữu ích; (iv) Xuất bản 54 cuốn sách, 732 bài báo quốc tế, 2.098 bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành trong nước; (v) Góp phần đào tạo trên 360 thạc sỹ và tiến sỹ.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số dưới các hình thức đa phương, song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia, các viện nghiên cứu, trường đại học hàng đầu thế giới về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tích cực, chủ động tham gia định hình các khuôn khổ, nguyên tắc, quản trị về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong các cơ chế hợp tác đa phương; hình thành mạng lưới các nhà nghiên cứu khoa học tìm kiếm cơ hội áp dụng đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào các hoạt động quản lý hiệu quả và phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên; nghiên cứu khả năng tham gia các cơ chế, sáng kiến hợp tác mới về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nhất là thúc đẩy nâng cao năng lực và chuyển giao công nghệ trong các thoả thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã thông tin với báo chí về việc thực hiện 7 nhiệm vụ then chốt của KHCN ngành Nông nghiệp và Môi trường
Triển khai đồng bộ 7 nhiệm vụ then chốt trên sẽ tạo nền tảng cho một nền nông nghiệp xanh - hiện đại - bền vững, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sống, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo an ninh sinh thái - lương thực quốc gia trong bối cảnh biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Minh - Huyền