
Cần thành lập bản đồ hiện trạng môi trường phóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển
03/02/2025TN&MTCông tác điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản cần được thực hiện đi trước một bước và phải tiến hành đồng thời với điều tra cơ bản địa chất, điều tra địa chất môi trường, địa chất tai biến, địa chất khoáng sản biển, nghiên cứu các chuyên đề về địa chất và khoáng sản trên lãnh thổ và lãnh hải; ưu tiên thực hiện các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Trong đó mục tiêu hàng đầu là: Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:500.000 đạt 90% diện tích đất liển và tỷ lệ 1:500.000 ở phần Lãnh hải đến độ sâu 100m nước, tỷ lệ 1:50.000 đến 1:100.000 một phần diện tích biển đới ven bờ đến độ sâu 0-30m nước nhằm làm rõ hơn về cấu trúc địa chất, mức độ phân bố khoáng sản và khoanh định các diện tích có triển vọng về khoáng sản làm cơ sở cho việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Điều tra, nghiên cứu môi trường để hiểu về biển
Việt Nam hiện là nước đứng đầu Đông Nam Á, trên cả Thái Lan và gần bằng Malaysia về diện tích biển. Trong số 64 tỉnh, thành phố của nước ta có 28 tỉnh, thành phố ven biển và gần một nửa dân số sống và làm việc tại các tỉnh ven biển.
Vùng biển Việt Nam có nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú gồm: Tài nguyên sinh vật; tài nguyên đất, nước; tài nguyên địa chất, khoáng sản; tài nguyên dầu khí; tài nguyên khí hydrat; tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất với các danh lam thắng cảnh, nhiều bãi biển đẹp, đa dạng về các kiểu đất ngập nước, sự giàu có về hệ sinh thái rừng ngập mặn,… tạo nhiều tiềm năng cho phát triển KT-XH. Du lịch, giao thông - cảng biển, nuôi trồng, khai thác thủy sản tạo thành vùng biển có vai trò vô cùng quan trọng về chiến lược, an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế. Biển là hệ sinh thái chịu ảnh hưởng không những từ các hoạt động KT-XH địa phương mà còn chịu sự chi phối của những yếu tố khác mang tính chất xuyên quốc gia.
Biển là nơi lắng đọng cuối cùng của nhiều vật thể, sản phẩm của nhiều quá trình địa hóa cũng như các chất thải do hoạt động của con người gây ra; trong đó, chất thải phóng xạ đang được quan tâm cao do sự phát triển của ngành công nghiệp hạt nhân trong những năm gần đây. Ven biển Việt Nam có các mỏ sa khoáng titan đồng hành với các chất phóng xạ tại các tỉnh: Quảng Ninh, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận với tổng trữ lượng hơn 600 triệu tấn, đứng thứ 3 thế giới.
Theo kết quả khảo sát phổ gamma và phân tích mẫu tỉ lệ 1:500.000; 1:100.000, vùng biển ven bờ nước ta có nhiều dị thường phổ gamma có liên quan với các tụ khoáng titan, zircon, monazit. Là một thành phần của môi trường, môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo gắn liền với sự tồn tại, phát triển của nhân loại. Con người từ khi ra đời đã luôn chịu các tác động của môi trường phóng xạ tự nhiên. Đến lượt mình, trong quá trình phát triển, con người cũng có các tác động làm biến đổi môi trường phóng xạ tự nhiên theo các hướng khác nhau.
Nghiên cứu môi trường phóng xạ tự nhiên là một yêu cầu tự thân của sự tồn tại, phát triển nhân loại. Vì vậy, đẩy mạnh công tác điều tra, nghiên cứu môi trường biển nói chung và môi trường phóng xạ biển nói riêng trong bối cảnh hiện nay là rất cần thiết, cấp bách, nhằm tăng cường hiểu biết về biển, phục vụ phát triển bền vững, thịnh vượng và an toàn dựa vào biển.
Chưa có một quy chế riêng cho công tác thành lập bản đồ phổ gamma đáy biển ở các tỷ lệ
Trên thế giới, nghiên cứu môi trường phóng xạ được thực hiện rộng rãi trong các nước phát triển và đang phát triển. Tại đó, các nghiên cứu được triển khai theo các hướng khác nhau, trong đó nghiên cứu làm rõ các thông số của trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo được tiến hành đồng thời với các nghiên cứu chi tiết về tác động của các thành phần của trường phóng xạ lên môi trường sống tự nhiên và con người. Kết quả của các nghiên cứu đó là các bản đồ các thành phần trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo, các số liệu, tham số thể hiện tác động của các thành phần lên môi trường tự nhiên và con người.
Ở nước ta, công tác nghiên cứu môi trường phóng xạ và môi trường phóng xạ tự nhiên đã được bắt đầu từ thập niên 50 và phát triển mạnh từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Định hướng chung và các phương pháp điều tra, nghiên cứu về cơ bản cũng tương tự các nước trên thế giới.
Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển là một hoạt động khoa học - công nghệ. Vì vậy, cần thiết phải có một hệ thống các văn bản làm cơ sở cho việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra; đánh giá chất lượng của các tài liệu thu thập và nghiệm thu đánh giá chất lượng các sản phẩm trong công tác điều tra cơ bản tài nguyên - môi trường biển. Tuy nhiên các tài liệu, sổ tay hướng dẫn, Quy trình, Quy phạm, Quy định, Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật đặc thù cho công tác đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo trong nước biển và trầm tích đáy biển Việt Nam hầu như chưa được ban hành. Trong thực tế ở Việt Nam công tác thành lập bản đồ phổ gamma đáy biển tỷ lệ
1:500.000 (1:250.000); 1:100.000 (1:50.000) là nhiệm vụ đã được thực hiện trong nhiều năm qua trong các đề án, dự án biển, được gắn liền với công tác lập bản đồ địa chất biển, nội dung cơ bản được dựa trên các quy định hiện hành cho công tác lập bản đồ phổ gamma trên đất liền. Đến nay, chưa có một quy chế riêng cho công tác thành lập bản đồ phổ gamma đáy biển ở các tỷ lệ.
Trải qua hơn 30 năm nghiên cứu môi trường phóng xạ tự nhiên cho thấy bên cạnh các thành tựu, mảng điều tra nghiên cứu này còn các tồn tại: Chưa xác định thống nhất, đầy đủ có cơ sở khoa học và thực tế các thành phần môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo cần phải thành lập bản đồ; Chưa xác định các tỷ lệ lập bản đồ môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo thống nhất, phù hợp với hệ thống các tỷ lệ bản đồ trong nghiên cứu, điều tra cơ bản; Chưa có quy trình khoa học, thống nhất, phù hợp thực tế để lập các bản đồ môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo.
Đến nay, chưa có một quy chế riêng cho công tác thành lập bản đồ phổ đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển ở các tỷ lệ. Do đó, việc “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá hiện trạng môi trườngphóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển” làm cơ sở khoa học xây dựng. Quy định kỹ thuật lập bản đồ hiện trạng môi trường phóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển làm cơ sở đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ trong nước biển và trầm tích đáy biển vùng Nga Sơn - Cửa Hới, Thanh Hóa, Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam.
Những vấn đề tồn tại, hạn chế trong nghiên cứu môi trường phóng xạ biển ở Việt Nam. Công tác điều tra tổng hợp tài nguyên, môi trường biển được tiến hành có hệ thống từ năm 1991 đến nay ở các tỷ lệ từ 1:500.000, 1:100.000, 1:50.000. Các kết quả đo đạc phổ gamma ngoài thực địa được xem như việc áp dụng một phương pháp phân tích nhanh trong địa hoá tìm kiếm khoáng sản, đã thu được các kết quả nhất định.
Các thiết bị được cải tiến (CP68-03) hoặc (GA-12) đáp ứng được yêu cầu đo phổ gamma đáy biển. Đồng thời với một thời gian không dài đã đo phổ gamma và luận giải các kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, để công tác đo phổ gamma phục vụ công tác tìm kiếm khoáng sản, giám định chất lượng môi trường nhất là khi điều tra ở tỷ lệ lớn chúng ta nên có cụm máy đo phổ gamma liên tục. Các tác giả mới dừng lại công tác đo phổ gamma tính liều tương đương, chưa tính được liều hiệu dụng. Vì thế không thể đem số liệu liều tương đương so sánh với liều giới hạn (liều giới hạn là liều hiệu dụng). Về việc xác định phông bức xạ tự nhiên cũng chưa có sự thống nhất cần phải có sự quy định thống nhất. Chưa có sự thống nhất bộ chú giải về phân vùng giá trị liều chiếu, gam màu.
Như vậy, đến hiện nay chưa có công trình nào điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ biển để thành lập bộ bản đồ môi trường phóng xạ biển phục vụ cho các ngành kinh tế liên quan với định hướng phát triển kinh tế biển và quản lý điều tra khoáng sản biển.
Ở nước ta các nghiên cứu, các công trình, dự án chủ yếu tập trung điều tra, khảo sát, đánh giá hiện trạng, chưa có hoặc chưa đề cập trong bất cứ công trình nào nghiên cứu nào về cơ sở lý thuyết về chất phóng xạ trong môi trường biển.
Không chỉ vậy, các nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ mang tính chất tham khảo và sử dụng cục bộ với đặc điểm môi trường, điều kiện tự nhiên, điều kiện thực tế của từng khu vực.
Công tác nghiên cứu môi trường phóng xạ bước đầu đã đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng còn một số hạn chế, tồn tại sau: Về phương pháp nghiên cứu, mạng lưới điều tra, nhìn chung không đồng bộ và chưa thống nhất trong các đề tài, đề án nghiên cứu. Các nhiệm vụ chỉ xác định một thành phần hoặc một số thành phần phóng xạ, chưa đánh giá tổng thể, đầy đủ các chỉ tiêu môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo của khu vực. Mạng lưới đo vẽ, lấy mẫu cũng chưa thống nhất; cùng tỷ lệ đo vẽ, nhiều phương pháp hoặc mạng lưới quá thưa, hoặc quá dày không phù hợp với tỷ lệ nghiên cứu, dẫn đến độ tin cậy kết quả chưa cao. Các quy trình, quy phạm chưa được quy định. Nguyên nhân do mỗi nhiệm vụ có một mục đích khác nhau, nhưng bao trùm là do chưa làm rõ được cơ sở khoa học để xác định hệ phương pháp nghiên cứu, điều tra về môi trường phóng xạ biển; Chưa có sự thống nhất các mức liều tương đương trong việc phân chia các vùng ô nhiễm dẫn đến cùng là vùng “không an toàn” nhưng mức liều rất khác nhau; Chưa có quy trình kỹ thuật để hướng dẫn thống nhất phương pháp đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ biển.
Để phát triển kinh tế biển bền vững trong lĩnh vực du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là thực hiện điều tra, đánh giá hiện trạng của các yếu tố ô nhiễm.
Xây dựng bộ dữ liệu có trong từng giai đoạn, trong đó có các yếu tố về phóng xạ tự nhiên và phóng xạ nhân tạo; đồng thời kiến nghị xây dựng kế hoạch tiến hành quan trắc theo dõi định kỳ các loại ô nhiễm biển với mục đích xác định xu thế diễn biến chất lượng môi trường biển, nguyên nhân và mức độ ô nhiễm, kịp thời phát hiện các sự cố môi trường nhằm giúp các nhà quản lý đề ra các biện pháp hạn chế và ngăn ngừa ô nhiễm, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường biển.
Hoàn thiện xây dựng bộ chỉ tiêu đặc trưng sử dụng trong đánh giá hiện trạng phóng xạ trong môi trường biển và lựa chọn hệ phương pháp đánh giá, lấy mẫu hợp lý, khả thi đảm bảo được độ tin cậy, tính đại diện và hiệu quả kinh tế; Xây dựng quy định kỹ thuật đánh giá hiện trạng phóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển (dự thảo) là cấp thiết làm cơ sở Thành lập bản đồ hiện trạng môi trường phóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển. Qua việc phân tích tài liệu và các công trình nghiên cứu môi trường phóng xạ nói chung và môi trường phóng xạ biển nói riêng luôn được các nước quan tâm và có những chương trình nghiên cứu, quan trắc, giám sát, đánh giá thường nhật, thường niên để luôn có thể khống chế và kiểm soát được những nguy cơ về ô nhiễm môi trường phóng xạ theo các tiêu chuẩn đã đặt ra và đưa ra các biện pháp ứng phó kịp thời khi cần thiết.
Nhưng ở Việt Nam hiện nay các nghiên cứu, các công trình, dự án chủ yếu tập trung điều tra, khảo sát, rất ít nghiên cứu cho thấy việc cần thiết và đánh giá môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo ở Việt Nam một cách toàn diện. Không chỉ vậy các nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ mang tính chất tham khảo và sử dụng cục bộ với đặc điểm môi trường, điều kiện tự nhiên, điều kiện thực tế của từng khu vực. Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở hiện trạng tình hình công tác đánh giá môi trường phóng xạ tự nhiên và nhân tạo trên thế giới và Việt Nam là rất cần thiết. Trên cơ sở kế thừa và phát huy các kinh nghiệm, kiến thức và những cơ sở khoa học thực tiễn của các nghiên cứu trên thế giới sẽ giúp cho việc đánh giá một cách toàn diện công tác đánh giá môi trường phóng xạ trong nước biển và trầm tích bề mặt đáy biển Việt Nam. Vì vậy, đẩy mạnh công tác điều tra, nghiên cứu môi trường biển nói chung và môi trường phóng xạ biển nói riêng trong bối cảnh hiện nay là rất cần thiết, cấp bách, nhằm tăng cường hiểu biết về biển, phục vụ phát triển bền vững, thịnh vượng và an toàn dựa vào biển.
NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 22 (Kỳ 2 tháng 11) năm 2024