Cần tiếp tục đồng hành và hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

28/07/2024

TN&MTGiải quyết đất sản xuất cho người dân vùng đồng bào Dân tộc thiểu số (DTTS) là chủ trương lớn, có ý nghĩa rất nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, tạo điều kiện cho người dân có đất sản xuất, ổn định thu nhập và góp phần tạo sinh kế lâu dài nhằm giảm nghèo bền vững. Để thực hiện chủ trương này đạt hiệu quả, có cơ sở thực hiện Luật Đất đai 2024, các sở, ban, ngành địa phương trong cả nước cần phối hợp chặt chẽ với các huyện, xã, thôn, bản chủ động rà soát, kịp thời tham mưu cho UBND tỉnh quy hoạch các loại đất.

Tiếp tục đồng hành và hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

ảnh minh họa

Nhiều chính sách liên quan đến đất đai, an sinh xã hội được hoàn thiện

Nước ta có 53 dân tộc thiểu số, chiếm 14,68% tổng dân số với 14,119 triệu người với 3,6 triệu hộ, cư trú đan xen. Xuất phát từ lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, nước ta luôn đặc biệt coi trọng vai trò của việc phát huy ý chí, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, hệ thống chính sách dân tộc được hoàn thiện, đầy đủ hơn, bao phủ toàn diện các lĩnh vực, phân cấp cho các địa phương tổ chức thực hiện, có 66 văn bản luật có các điều khoản quy định đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số; đã tích hợp một số chính sách, khắc phục tình trạng dàn trải, chồng chéo về chính sách, được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về việc phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (giai đoạn 2021-2030) và Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (giai đoạn 2021-2030).

Cũng trong những năm qua, các chương trình chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta được thực hiện hiệu quả góp phần cải thiện rõ rệt tình hình kinh tế - xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. 1,2 triệu hộ (chiếm 36,9% tổng số hộ đang sống trong các xã vùng dân tộc thiểu số) được hỗ trợ bằng tiền hoặc hiện vật từ các chương trình chính sách, dự án của Nhà nước hoặc các đơn vị tổ chức cá nhân ngoài nhà nước. Các hộ dân tộc thiểu số được tiếp cận vay vốn tín dụng chính sách xã hội để phát triển kinh tế, nâng cao trình độ quản lý, sản xuất kinh doanh từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống và tạo động lực để thoát nghèo.

Tổng kinh phí cho các chính sách về đất ở và đất sản xuất vùng dân tộc thiểu số là hơn 6.668 tỷ đồng, chính sách hỗ trợ nhà ở đã hỗ trợ nhà ở cho gần 300.000 hộ là người dân tộc thiểu số giúp họ an cư để sinh sống và làm việc. Tỷ lệ nhà ở của hộ dân tộc thiểu số tăng từ 95,7% năm 2015 lên 99,1% năm 2019. Tỷ lệ đất ở của hộ dân tộc thiểu số tăng từ 97,26% năm 2015 đến 99,1% năm 2019 trong đó diện tích đất chủ yếu từ 200 mét vuông trở lên, nhà kiên cố và bán kiên cố là 86,4%; số hộ dân tộc thiểu số sử dụng điện lưới thắp sáng tăng từ 93,9% năm 2015 lên 96,7% năm 2019. Tính đến 30/6/2023 tỷ lệ hộ di cư không theo quy hoạch được sắp xếp bố trí ổn định đạt trung bình 65,8/90%; tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt trung bình 94%. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số đang cư trú tại các khu vực xa xôi hẻo lánh nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở được quy hoạch sắp xếp di dời bố trí đạt trung bình 41,9/60%.

Thời gian qua thực hiện chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, nhiều chính sách liên quan đến việc giải quyết đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số đã được triển khai có hiệu quả, giúp hàng trăm ngàn hộ vươn lên thoát nghèo. Ví dụ, hơn 20 năm về trước, ông Y-Ni-Ê-Ban (Buôn Sút M’dru, xã Cư Suê, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk) được nhà nước cấp hơn 1ha đất, trong đó có 400m2 đất ở, còn lại là đất sản xuất nông nghiệp. Có được tài sản trong tay, ông Y-Ni-Ê-Ban đã sử dụng để vay vốn ngân hàng, đầu tư chăm sóc cây cà phê rồi mở rộng quy mô trồng thêm sầu riêng. Đến nay, gia đình ông đã có một cơ ngơi khang trang và cuộc sống no đủ.

Ông Y- Ni- Ê-Ban cho biết, “được cấp đất, dựa theo kiến thức khoa học kỹ thuật, rồi chăm sóc vườn, cây cối xanh tốt. Một năm thì vườn cho trên 03 tấn cà phê, ngoài ra còn cây sầu riêng rồi các cây công nghiệp khác cũng là thu nhập chính, nhờ thế gia đình cũng khá giả và nuôi con ăn học đến nơi đến chốn”.

Sau nhiều năm sử dụng có hộ gia đình chọn cách bán đi một phần hộ diện tích đất được cấp để đầu tư phát triển theo nhu cầu cá nhân. Nhưng đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc bán đất mà không được sử dụng hợp lý sẽ khiến họ mất đi tư liệu sản xuất, dễ rơi vào tình trạng nghèo đói. Chị Mi -Hữu- Niê (Buôn Sút M’dru, xã Cư Suê, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk) cho biết, “Hồi đó, tôi bán đi một sào đất, xong rồi chuyển sang làm sân bóng, có thêm đồng ra đồng vào, dư được một ít kinh tế thì chuyển sang trồng cà phê với cây hồ tiêu. Nhưng cũng may, sử dụng đồng vốn hợp lý nên cuộc sống gia đình tôi cũng đỡ vất vả”.

Để đảm bảo giảm nghèo bền vững, phải tạo nguồn sinh kế ổn định là từ các diện tích đất có thể khai thác, sản xuất. Vì vậy, Luật Đất đai 2024 đã quy định từng trường hợp cụ thể về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất. Điều này thể hiện sự quân tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước với dân tộc thiểu số trên khắp mọi miền của Tổ quốc.   

Tiếp tục đồng hành và hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Được giao đất, người dân Đắk Nông yên tâm phát triển hồ tiêu. Ảnh minh họa

“Xuất phát từ việc có đất, người dân với an cư lập nghiệp ổn định sản xuất, khi có đất được cấp theo đúng quy định của Luật đất đai thì người dân với có thể sử dụng nó để vay vốn phát triển kinh tế gia đình, đồng bào dân tộc phấn khởi, có thêm sức mạnh và niềm tin vào Đảng và Nhà nước” - ông Đặng Văn Hoan, Chủ tịch UBND xã Cư Suê, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk cho biết!.

Cùng với đó các cấp chính quyền ở Đắk Lắk đã đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về đất đai mỗi khi Đảng và Nhà nước có chính sách mới cho đồng bào dân tộc thiểu số biết, hiểu rõ tường tận quyền lợi và trách nhiệm của mình và hỗ trợ để đồng bào quản lý, sử dụng có hiệu quả với đất sản xuất đã được giao.

Có thể thấy chính sách dân tộc được Đảng, Nhà nước ta nhất quán thực hiện trong những năm qua đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi có những bước chuyển mình quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng lên. Những thành quả trong phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần quan trọng củng cố niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó nghe và làm theo, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối, chính pháp luật của Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh.

Tiếp tục đồng hành và hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Nhưng vẫn còn một số bất cập, tồn tại

Tuy nhiên, bên cạnh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về mặt chính sách, nhưng thực tế cho thấy tỉ lệ đất được giao cho đồng bào dân tộc thiểu số, người dân địa phương vẫn còn thiếu đất ở, đất sản xuất, nhiều bất cập.

Theo Báo cáo nghiên cứu khả thi Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2011-2030; đến năm 2019, cả nước có khoảng 724 nghìn hộ DTTS thiếu đất sản xuất hoặc đất ở và nhà ở. Nhiều địa phương cho rằng nguồn lực, quỹ đất rất khó khăn và mức hỗ trợ thấp. Trên thực tế, diện tích đất chưa sử dụng của cả nước có 1,2 triệu ha, trong đó, đất đồi núi chưa sử dụng còn 908,56 nghìn ha. Đáng chú ý, phần lớn diện tích đất này là đất dốc đã qua sử dụng để canh tác nương rẫy, chất lượng đất bị suy giảm.

Tiếp tục đồng hành và hỗ trợ đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

ảnh minh họa

Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, cả nước có hơn 3,3 triệu ha do UBND xã quản lý (chưa giao). Bên cạnh đó, các địa phương còn diện tích đất rất lớn đang giao cho các tổ chức kinh tế sử dụng dưới dạng giao quyền sử dụng đất (QSDĐ)/thuê đất có thời hạn. Trong số hơn 6,8 triệu ha đã giao cho các ban quản lý (BQL) và các Công ty lâm nghiệp (CTLN), ước tính khoảng hơn 1 triệu ha đang có chồng lấn (Hiện không có số liệu chính xác trên toàn quốc, các địa phương ước tính tỷ lệ chồng lấn với rừng sản xuất là 15-30%, rừng phòng hộ 10-15%, rừng đặc dụng là 5-7%). Ngoài ra, nhiều diện tích chưa được sử dụng, quản lý hiệu quả, đang giao khoán lại cho cộng đồng bảo vệ, chăm sóc.

Có thể thấy rằng, diện tích đất chưa giao sử dụng chưa hiệu quả này chưa được khai thác hết để tạo quỹ đất giao cho đồng bào DTTS thiếu đất. Trong đó, những vướng mắc cơ bản liên quan đến sự chênh lệch giữa số liệu thống kê, chỉ tiêu quy hoạch với hiện trạng sử dụng đất thực tế và quy hoạch 3 loại rừng; chưa có khuôn khổ pháp lý rõ ràng trong việc thu hồi đất để tạo quỹ đất giao cho đồng bào DTTS thiếu đất.

Ngoài ra, tiến trình giao rừng, giao đất cho đồng bào DTTS còn chậm.  Theo Báo cáo của Ủy ban Dân tộc Quốc hội, từ năm 2003 - 2016, đã hỗ trợ đất ở cho hơn 93.600 hộ, đất sản xuất cho trên 107.800 hộ gia đình người DTTS; giai đoạn 2017 - 2020, đã hỗ trợ đất ở cho 9.523 hộ và đất sản xuất cho 3.900 hộ. So với mục tiêu đề ra, tiến độ thực hiện chính sách đất đai cho đồng bào DTTS còn rất chậm. Tính đến cuối năm 2018, khoảng 85% trong số hơn 400 nghìn ha đất dự kiến được giao cho cộng đồng vẫn đang do các CTLN Nhà nước hoặc chính quyền địa phương quản lý, chưa giao được cho cộng đồng. Nếu theo tiến độ dự kiến này, gần như chắc chắn rằng, mục tiêu đến năm 2025, giải quyết cơ bản vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS sẽ không đạt được như Nghị quyết số 18-NQ/TW đề ra.

Theo Viện Tư vấn Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi, việc chậm trễ tiến độ giao đất, giao rừng cho đồng bào DTTS có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như:

Thứ nhất, sai lệch giữa số liệu thống kê, ranh giới trên bản đồ quy hoạch với thực tế sử dụng. Hiện nay, phần lớn diện tích được bàn giao cho các địa phương quản lý đã có người sử dụng. Việc bàn giao đất, rừng cho UBND xã chủ yếu chỉ là giao trên sổ sách, không xác định được trên thực địa. Bên cạnh đó, có sự sai khác về thực tế sử dụng đất và mục đích sử dụng đất theo quy hoạch; hơn nữa, đối tượng được giao khoán, thuê đất chuyển nhượng qua nhiều lần; việc xử lý tài sản trên đất phức tạp, khó khăn. Hiện tại, còn thiếu những hướng dẫn cụ thể và nhất quán về hồ sơ và thủ tục để xử lý (thu hồi/ điều chỉnh hay cấp giấy chứng nhận QSDĐ) đối với các diện tích sai khác, chồng lấn này. Hơn nữa, hầu hết các địa phương chưa có kinh phí đo đạc diện tích nhận lại để lập hồ sơ giao đất, cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trên thực tế, đây là vướng mắc lớn nhất mà các địa phương chưa tháo gỡ được, dẫn đến chậm trễ trong việc triển khai giao đất cho đồng bào DTTS thiếu đất.

Thứ hai, các quy định của Luật Đất đai chưa nhất quán với Luật Lâm nghiệp và chưa cụ thể hóa đầy đủ một số nội dung liên quan đến giao đất rừng cho cộng đồng quản lý. Luật Đất đai năm 2013 có nhiều điểm còn bất cập, chưa nhất quán với Luật Lâm nghiệp năm 2017, chẳng hạn như chưa có quy định cộng đồng dân cư là người sử dụng đất, quy định về đất tín ngưỡng, quy định về tiến trình và điều kiện để cấp đất cho cộng đồng quản lý, khái niệm rừng, đất lâm nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất,... Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã có điều chỉnh và bổ sung một số quy định để đảm bảo sự nhất quán với quy định của Luật Lâm nghiệp 2017, tuy nhiên, vẫn chưa xử lý hết được những bất cập giữa hai Luật này. Ví dụ, bất cập về loại đất và đối tượng được giao, thuê đất so với loại rừng và đối tượng được giao, thuê rừng (như ở các Điều 120, 178, 179, 180). Điều này đã dẫn đến những bất cập vướng mắc khi triển khai giao đất, gắn với giao rừng cho cộng đồng DTTS quản lý rừng và đất lâm nghiệp ở nhiều tỉnh, thành trên cả nước.

Thứ ba, quá trình rà soát và bàn giao đất từ các CTLN chưa được triển khai một cách thực chất và hiệu quả. Diện tích đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh, sau này chuyển đổi thành các CTLN là quỹ đất quan trọng để bố trí đất sản xuất cho đồng bào DTTS thiếu đất. Trong những năm qua, việc rà soát quỹ đất do các CTLN quản lý được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp, Nghị quyết số 112/2015/QH13 về tăng cường quản lý đất đai có nguồn gốc từ nông trường, lâm trường quốc doanh do các công ty nông nghiệp, CTLN, BQL rừng và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác sử dụng; Nghị định số 118/2014/NĐ-CP của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp,... Các văn bản pháp lý này đã đưa ra những hướng dẫn khá cụ thể, chi tiết cho việc rà soát, sắp xếp lại các CTLN. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai rà soát và bàn giao quỹ đất do các CTLN đang quản lý ở nhiều nơi còn chưa thực sự hiệu quả, thiếu thực chất. Hiện nay, vẫn còn diện tích lớn đất, rừng thuộc phạm vi quản lý của các CTLN, BQL rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đang có chồng lấn với thực tế sử dụng của cộng đồng. Một trong những nguyên nhân chính của việc tồn tại kéo dài tình trạng chồng lấn này là do thiếu sự tham gia của chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư ở khu vực giáp ranh trong quá trình rà soát và bàn giao đất về cho địa phương, thiếu sự tham gia giám sát đối với hoạt động rà soát và bàn giao đất, rừng từ các CTLN về cho địa phương.

Cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp

Qua giám sát, các hạn chế trong việc thực hiện giải quyết đất sản xuất cho người dân vùng đồng bào DTTS giai đoạn 2021 - 2024 đã được các địa phương chỉ ra và đưa ra nhiều giải pháp cụ thể, giúp cho các địa phương thực hiện tốt công tác quản lý đất, giải quyết đất sản xuất cho người dân.

Cần rà soát lại quỹ đất địa phương quản lý, thực hiện thủ tục giao đất sản xuất cho người dân, phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành đối với 90% hộ nghèo DTTS, dân tộc Kinh sinh sống tại thôn, xã đặc biệt khó khăn. Tăng cường giải quyết thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, giúp công tác quản lý đất đai đảm bảo hơn.

Điều tra, thống kê thực trạng thiếu đất sản xuất của người dân, từ đó sớm xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quỹ đất phù hợp để giao đất cho dân. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về đất đai để cán bộ và người dân hạn chế tình trạng vi phạm, tranh chấp, lấn chiếm đất trái phép.

Giải quyết đất sản xuất cho người dân vùng đồng bào DTTS là chủ trương lớn, có ý nghĩa rất nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, tạo điều kiện cho người dân có đất sản xuất, ổn định thu nhập và góp phần tạo sinh kế lâu dài nhằm giảm nghèo bền vững. Để thực hiện chủ trương này đạt hiệu quả, có cơ sở thực hiện Luật Đất đai năm 2024, đề nghị các địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành chủ động rà soát, kịp thời tham mưu cho UBND tỉnh quy hoạch các loại đất rừng. Trên cơ sở đó thu hồi các diện tích đất lâm nghiệp từ các tổ chức, cá nhân hoạt động không hiệu quả để tiếp tục xem xét, giao đất cho dân chưa có đất hoặc còn thiếu đất sản xuất theo quy định.

Đồng thời, tăng cường quản lý đất đai, xử lý nghiêm các trường hợp phá rừng, lấn chiếm đất rừng. Bên cạnh đó, tuyên truyền vận động, tuyên truyền người dân các dân tộc thiểu số chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trồng trọt nhằm tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống và giảm nghèo bền vững.              

Ngọc Diệp

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Phát động Cuộc thi viết “Vượt lên số phận” lần thứ VIII

Long An: Top 2 địa phương cải cách mạnh nhất theo PCI 2005 - 2024

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to

Thời tiết ngày 11/5: Mưa to trải dài khắp đất nước, nhiều nơi mưa trên 60mm