
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế biển hậu Covid-19
12/12/2021TN&MTTại Kỳ họp thứ Nhất - Quốc hội khóa XV vừa qua, một số đại biểu quốc hội đã kiến nghị chuyển đổi cơ cấu kinh tế biển theo hướng mở rộng, phát triển đô thị biển, nuôi thủy sản trên biển (nuôi biển) và năng lượng biển tái tạo, trước hết là điện gió ngoài khơi. Có như vậy, Việt Nam mới thực sự bước ra biển lớn.
Nhiều năm trước, du lịch biển đảo là một trong những trọng tâm của kinh tế biển Việt Nam, tuy nhiên 2 năm trở lại đây do bị ảnh hưởng bởi Covid -19 nên kinh tế du lịch bị thiệt hại nghiêm trọng. Đây là bài toán mà các nhà chức trách đang phải “cân não” tìm hướng thích nghi. Đứng trước thách thức to lớn để phục hồi kinh tế trong và sau đại dịch, Quốc hội đã thảo luận về Kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm cho giai đoạn 2021-2025, trong đó có chiến lược đầu tư cho kinh tế biển.
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Đại biểu Quốc hội khóa XV.
Nhà quản lý - doanh nghiệp - cộng đồng cùng tham gia
Trong giai đoạn vừa qua, dù có những trở ngại nhưng kinh tế biển phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh, thành phố ven biển. Một số ngành kinh tế biển đã phát triển nhanh, đóng góp tích cực cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế biển đã bộc lộ những mặt hạn chế,... do đầu tư còn dàn trải, chưa tương xứng tiềm năng. Đại biểu quốc hội đã đề xuất Chính phủ cần rà soát lại, xác định rõ và điều chỉnh linh hoạt các ưu tiên cho từng đối tượng cụ thể, bám sát chủ trương và quan điểm chỉ đạo của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt là Chiến lược biển 2030).
Để làm được như vậy, theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Đại biểu Quốc hội khóa XV (đoàn Hải Phòng) cho rằng, cần huy động nguồn lực xã hội nhiều hơn và chuyển đối tượng thực hiện cho các địa phương, các ngành liên quan trực tiếp quản lý. Cần nhận thức rằng, chiến lược biển 2030 có mục tiêu bao trùm là phát triển kinh tế biển với các chỉ tiêu cụ thể, chứ không phải “nghiên cứu khoa học về kinh tế biển” nên cần chú trọng yếu tố thực tiễn và hiệu quả thực hiện. Cho nên, phải giao cho các địa phương có biển và các ngành kinh tế liên quan lồng ghép vào các chương trình phát triển 5 năm tới của bộ, ngành, địa phương với sự giám sát của Chính phủ. Bên cạnh đó, kêu gọi các doanh nghiệp, những “mạnh thường quân”, những người khai thác, sử dụng biển và cả cộng đồng người dân ven biển, trên các huyện đảo, bao gồm ngư dân cùng đồng hành tham gia. Tức là tổ chức triển khai chiến lược phải dựa vào mục tiêu và những đối tượng làm kinh tế biển phải là lực lượng trực tiếp thực hiện, nhập cuộc.
Thực tế cho thấy, vai trò của cộng đồng cư dân ven biển rất quan trọng. Truyền thống bao đời nay, họ vẫn là lực lượng nòng cốt bám biển, giữ biển với những phương cách làm ăn nhỏ lẻ, không có định hướng cụ thể nên chưa xác định chỗ đứng của mình trong những chủ trương chính sách lớn của Nhà nước. Tuy nhiên, đây là chiến lược của quốc gia nên mọi thành phần kinh tế, xã hội có năng lực, có nhu cầu đều phải tham gia và được hưởng trực tiếp nguồn lực hỗ trợ từ Chính phủ. Cũng theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, đối với cộng đồng duyên hải thì biển chính là “nồi cơm chung” và nguồn sinh kế của họ. Thoát nghèo hay không là nhờ biển, bảo vệ môi trường biển được hay không cũng phụ thuộc cả nhận thức và hành vi của người dân, bảo vệ các quyền và lợi ích biển đảo Tổ quốc cũng phải dựa vào người dân ven biển, trên đảo, trong đó có lực lượng đông đảo ngư dân.
Như vậy, quản lý biển và phát triển kinh tế biển có rất nhiều yếu tố đặc thù nên cần có một “Bộ luật về biển Việt Nam” hoàn chỉnh, bao hàm nhiều lĩnh vực khác nhau của biển đảo theo nguyên tắc quản lý tổng hợp, liên ngành dựa vào không gian và thống nhất quản lý về mặt Nhà nước. Những đặc thù của biển đảo cần được cụ thể hóa rõ hơn trong hệ thống luật pháp về biển. Hiện đã có một số luật, nghị định chuyên đề và liên quan đến biển đảo, tuy nhiên căn cứ những gì đã thực hiện trong thực tiễn thì nó vẫn như “cái áo chật”, cần “cái áo rộng hơn” để bao quát toàn diện, đầy đủ nhiều vấn đề hơn để giúp giải quyết một cách kịp thời, căn bản những vấn đề về biển, đảo, kinh tế biển đảo và các hoạt động của những người lao động trên biển, bao gồm ngư dân.
Cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển linh hoạt
Du lịch biển nước ta được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn trong kinh tế biển, là mục tiêu đã được Chiến lược biển 2030 xác định với tầm nhìn đến 2045, nhưng dưới tác động của đại dịch Covid-19, du lịch biển đã sụt giảm doanh thu nghiêm trọng. Tại diễn đàn Quốc hội, các đại biểu cũng đã chia sẻ các minh chứng thực tế về những tác động xấu và có thể trường diễn của đại dịch Covid -19 đối với kinh tế du lịch - một ngành kinh tế dựa vào các lợi thế của tự nhiên, chất lượng môi trường và lượng du khách. Để phát triển du lịch biển thì hai yếu tố là điểm đến và lưu trú đóng vai trò quyết định. Nhưng nguồn lực vật chất, hạ tầng cơ sở của ngành du lịch như khu nghỉ dưỡng, khách sạn, phương tiện giao thông, dịch vụ du lịch chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Tình trạng này nếu kéo dài thì một bộ phận doanh nghiệp quan trọng này sẽ phá sản. Ngược lại, các giá trị tự nhiên và điểm đến của du khách thì không bị ảnh hưởng bởi tình trạng vắng khách, thậm chí vắng bóng du khách, thì thiên nhiên có thể dễ dàng phục hồi.
Từ đó, PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi đã đề xuất chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển một cách kịp thời và linh hoạt, như nhanh chóng có cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư vào năng lượng biển tái tạo, nhất là điện gió ngoài khơi; đầu tư cho những ngành nghề mới như nuôi thủy sản trên biển (nuôi biển), phát triển nghề cá giải trí. Thay vì đánh cá đi bán thì ta nuôi cá giải trí, đánh cá giải trí, câu cá giải trí, lặn ngắm cá rạn san hô, phát triển thị trường lặn biển. Đây là những ngành nghề tạo giá trị kinh tế cao mà không tổn hại đến tự nhiên. Mô hình này đã phát triển khá phổ biến trên thế giới và mang lại hiệu quả rất to lớn và bền vững. Vấn đề này cũng đã từng được đưa vào chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020, nhưng chỉ dừng ở góc độ khuyến khích doanh nghiệp tham gia chứ chưa có cơ chế cụ thể, trong khi không ít doanh nghiệp sẵn sàng chuyển hướng.
Một vấn đề khác đại biểu này cũng quan tâm là cần sớm phát triển hệ thống đô thị biển và kinh tế đô thị tại 28 tỉnh thành ven biển (bao gồm đô thị ven biển, đô thị đảo và đô thị trên biển). Bài toán quy hoạch không gian biển quốc gia và phát triển KT-XH ở các địa phương ven biển hiện nay không chỉ nghĩ đến việc xây nhà, mở rộng diện tích đô thị mà phải làm “kinh tế đô thị”, tạo ra những hệ sinh thái “nhân sinh” thông minh và một cực tăng trưởng cho kinh tế biển. Gần đây, quá trình chỉnh trang, mở rộng các đô thị ven biển như Hạ Long, Hải Phòng, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu,… đã thay đổi rất nhiều, bước đầu hình thành các đô thị ven biển văn minh, đáng sống. Hy vọng, thời gian tới, sau đô thị đảo Phú Quốc, sẽ có thêm Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cát Bà, Vân Đồn,... sẽ trở thành các “đô thị đảo” theo đúng nghĩa của nó. Đó là điểm nối kết bờ với biển, biển với đảo, kết nối biển Việt Nam với đại dương thế giới; là các trung tâm tích tụ dân số bền vững trên biển để gắn kinh tế với bảo đảm an ninh chủ quyền. Đó là những tín hiệu tốt để thấy kinh tế đô thị biển sẽ phải trở thành một lĩnh vực kinh tế biển thuộc ngành xây dựng, tương tự kinh tế hàng hải thuộc ngành giao thông, và du lịch biển thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch.
Quyết tâm chuyển dịch cơ cấu với phát triển các lĩnh vực kinh tế biển mới, kinh tế biển nước ta sẽ còn tiến ra đại dương chứ không mãi đứng ở ven bờ và đánh bắt ở “ao nhà”. Các lĩnh vực kinh tế biển “mới” nói trên đang phát triển mạnh tại không ít nước trên thế giới, như: Nhật Bản, Singapore, các nước Trung Đông,... Chúng ta nên nắm bắt và đi theo xu hướng này để góp phần thực hiện thành công “Khát vọng Việt Nam” theo các lộ trình đến năm 2025, 2030 và 2045 ghi trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
CHU THỊ HẢI ANH