
Loay hoay bài toán thu phí rác thải
26/09/2022TN&MTHiện nay, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ngày càng tăng nhưng phí thu gom chất thải rắn từ các hộ gia đình lại chưa phù hợp. Điều này gây khó cho các đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn trong đầu tư đổi mới công nghệ, giảm cường độ làm việc nặng nhọc và ảnh hưởng lớn đến thu nhập của công nhân vệ sinh môi trường. Thực trạng này đòi hỏi cần nghiên cứu, ban hành chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, bảo đảm tính đúng, tính đủ.
Đã đưa vào Luật nhưng chưa thực hiện được
Một trong những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người. Để những quy định trọng Luật phát huy hiệu quả, cần phải có lộ trình, giải pháp đồng bộ ở các khâu từ phân loại đến thu gom, xử lý và quan trọng nhất là sự đồng lòng của người dân và phải có bài toán về thu phí phù hợp.
Luật BVMT năm 2020 quy định việc thay đổi cách tính phí rác thải sinh hoạt mới được cho là có tính đột phá và sẽ tạo cuộc cách mạng về xử lý rác thải sinh hoạt, đồng thời cũng tạo nên sự công bằng: “ai xả rác nhiều, phải trả tiền nhiều”. Tại khoản 1, Điều 79 Luật BVMT năm 2020, về chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt như sau: Giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình, cá nhân được tính toán theo căn cứ sau đây: Phù hợp với quy định của pháp luật về giá; dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải đã được phân loại; chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế, chất thải nguy hại phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân đã được phân loại riêng thì không phải chi trả giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý.
Theo quy định nêu trên, việc cân rác tính ra “khối lượng, thể tích” rác thải sau khi được phân loại được coi là một yếu tố cấu thành nên giá dịch vụ thu gom rác thải sinh hoạt mà mỗi hộ gia đình, cá nhân phải trả hằng tháng. Hiện nay, mức giá dịch vụ này đang được tính bình quân và cào bằng, người xả 1kg rác cũng trả phí bằng với người xả 10kg rác. Theo quy định thì kể từ ngày 1/1/2022, nếu như không phân loại rác thải sinh hoạt theo đúng quy định sẽ bị từ chối thu gom, vận chuyển rác.
Cụ thể, tại khoản 2 Điều 77 của Luật BVMT năm 2020 quy định trao quyền cho các cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt như sau: “Cơ sở thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt có quyền từ chối thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân không phân loại, không sử dụng bao bì đúng quy định và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc triển khai việc thu phí rác thải tại nhiều địa phương còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy, việc thực hiện sẽ khó khăn, vì người thu gom rác không thể mang theo cân để xác định khối lượng rác thải từng hộ gia đình, hoặc dễ nảy sinh nạn đổ trộm rác thải sinh hoạt.
Một cư dân ở Vinhomes smart city (Nam Từ Liêm- Hà Nội) cho biết: “Tôi rất hưởng ứng điều luật mới, khuyến khích cư dân có trách nhiệm với lượng rác mình thải ra, ai xả nhiều rác thì phải đóng nhiều tiền. Tuy nhiên, việc giám sát khối lượng rác từng căn hộ sẽ khó khả thi và ai sẽ là người kiểm soát,…”.
Hiện lượng rác thải tại Việt Nam ước khoảng 50.000 tấn/ngày, trong đó tại các đô thị là khoảng 35.000 tấn/ngày, chiếm tới hơn 90% trong số đó là rác thải sinh hoạt. Riêng tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh mỗi ngày thải ra khoảng 8.000-9.000 tấn, trong đó hơn 80% được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp. Phần lớn các loại rác thải không được phân loại tại nguồn gây khó khăn cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý và tiềm ẩn nhiều nguy cơ ô nhiễm môi trường,…
Do vậy, việc thu phí thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt theo số lượng phát sinh theo khối lượng quy định tại Luật BVMT năm 2020 là cần thiết, không chỉ nâng cao ý thức của người dân trong việc hạn chế xả rác ra môi trường; phân loại rác, thu gom để tái chế mà còn khắc phục tình trạng xả rác tùy tiện, vô tội vạ, bảo đảm công bằng giữa các hộ dân, giảm bớt chi ngân sách. Tuy nhiên, để làm được điều này, nhiều ý kiến cho rằng các bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu ban hành phương pháp, quy trình xác định quản lý chi phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt để các địa phương xây dựng, điều chỉnh đơn giá nhanh chóng, thuận tiện, phù hợp.
Bài toán mức phí và kêu gọi trách nhiệm cộng đồng
Cần có quy định cụ thể về mức thu, tỷ lệ hỗ trợ, bù đắp từ ngân sách địa phương thống nhất trên cả nước với từng loại đô thị. Bên cạnh đó, cần có chế tài đối với những đối tượng không phân loại rác tại nguồn, không nộp tiền dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; trách nhiệm của UBND các cấp, các cơ quan chức năng liên quan, tổ trưởng dân phố và đối tượng sử dụng dịch vụ; trong cơ cấu giá chi phí dịch vụ cần có tỷ lệ phần trăm thích hợp để bồi dưỡng cho lực lượng trực tiếp thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt, đồng thời để các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm lao động nặng nhọc cho người công nhân và mỗi người dân cũng cần thể hiện vai trò của mình và cộng đồng cùng tham gia các hoạt động giảm phát sinh rác thải, thực hiện phân loại, tái chế,… nhằm tận dụng tốt hơn tài nguyên, góp phần BVMT.
Hiện nay, trên cả nước chỉ tính riêng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000-70.000 tấn/ngày. Trong đó, khu vực đô thị chiếm 60%. Hơn 70% sản lượng rác được xử lý bằng phương thức chôn lấp, có 15% rác thải chôn lấp hợp vệ sinh. Dự báo đến năm 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt sẽ tăng 10-16%/năm. Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ngày càng tăng nhưng phí thu gom chất thải rắn từ các hộ gia đình lại chưa phù hợp, điều này khiến các doanh nghiệp cũng như công nhân vệ sinh môi trường gặp nhiều khó khăn.
Chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản, ông Hideki Wada, đại diện Công ty TNHH Quy hoạch chất thải Việt Nam gợi ý, có thể sử dụng các loại túi rác để đo lượng chất thải, từ lượng chất thải quy ra số tiền phải trả cho dịch vụ vệ sinh môi trường. Túi rác nhỏ thì giá thấp và túi rác lớn thì giá cao hơn. Khi áp dụng hệ thống thu gom bằng túi, người dân sẽ có ý thức hơn, xả ra ít rác hơn và từ đó chi phí thu gom và xử lý cũng giảm. Ông dẫn ví dụ tại TP. Machida, Tokyo, tác động của phương pháp này khiến khối lượng rác thu gom giảm rõ rệt, từ 1.044g/người/ngày xuống 950g/người/ngày. "Tuy nhiên, khi áp dụng thu phí rác bằng túi cần cân nhắc đến kênh phân phối túi. Ở Nhật Bản, túi được bán tại các cửa hàng tiện lợi và siêu thị, còn Việt Nam có thể thông qua tổ dân phố, đơn vị địa phương.
Diệp Anh