Một số tiêu chí, chỉ số đo lường trong chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025

24/04/2025

TN&MTĐể xác định được đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, đến nay, Việt Nam đã 08 lần ban hành chuẩn nghèo quốc gia theo chủ trương chuẩn nghèo giai đoạn sau luôn cao hơn giai đoạn trước, từ chuẩn thu nhập đến tiếp chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều (giai đoạn 2016-2020) và chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025).

Cách tiếp cận nghèo đa chiều dựa theo quyền con người, quyền được bảo đảm an sinh xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Con người có quyền được đáp ứng tất cả các nhu cầu này để có thể đảm bảo cuộc sống bình thường.

Tiêu chí, chỉ số đo lường trong chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025

Về căn cứ xác định các chiều nghèo: Các chiều nghèo giai đoạn 2022-2025 được xác định trên cơ sở các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống được quy định trong Hiến pháp 2013, Nghị quyết số 15-NQ/TW và Nghị quyết số 76/2014/QH13, Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục - Đào tạo, Luật Nhà ở, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Khám chữa bệnh, Luật Viễn thông, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, các chiến lược/kế hoạch phát triển ngành.

Về phương pháp đo lường: Đo lường nghèo đa chiều ở Việt Nam sử dụng phương pháp Alkire Foster do tính đơn giản và phổ biến của phương pháp này. Phương pháp Alkire Foster của Sabina Alkire và James Foster thu hút sự quan tâm lớn từ cộng đồng quốc tế do cách thức đơn giản trong đo lường và xếp hạng nghèo đa chiều (Alkire và Foster, 2007, 2011). Phương pháp này đã được áp dụng trong phân tích nghèo đa chiều ở nhiều quốc gia, trong Báo cáo phát triển con người và đặc biệt đưa nghèo đa chiều vào luật, vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, vào các chương trình chính sách của một số quốc gia. Hiện nay, có khoảng 55 quốc gia và 17 cơ quan vùng và tổ chức quốc tế tham gia vào Mạng lưới Nghèo đa chiều toàn cầu - mạng lưới này sử dụng phương pháp Alkire Forster trong đo lường nghèo đa chiều.

Về nguyên tắc xác định các chỉ số đo lường: (1) Các chỉ số cần phản ảnh việc được đáp ứng hay không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản; (2) Các chỉ số cụ thể, đo đếm được, đặc biệt khi thu thập số liệu ở quy mô lớn; (3) ưu tiên lựa chọn chỉ số phản ánh kết quả, hoặc các chỉ số đo lường mức độ tiếp cận và khả năng chi trả các dịch vụ cơ bản; (4) các chỉ số nên linh hoạt với thay đổi chính sách, có lợi thế về nguồn lực và khả năng thực thi, có tính định hướng chính sách.

Về chuẩn nghèo: Chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 được ban hành theo Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ bao gồm 02 tiêu chí: (1) tiêu chí thu nhập; (2) tiêu chí các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong đó, tiêu chí thu nhập được xác định dựa trên số liệu về mức sống tối thiểu của dân cư năm 2018. Mức sống tối thiểu (MSTT) là khoản tiền đảm bảo chi trả đủ các nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần để có được một thể chất và tâm lý bình thường. Hiểu một cách đơn giản, MSTT là trị giá của các mặt hàng lương thực, thực phẩm (LTTP) và phi LTTP thiết yếu để đảm bảo các nhu cầu tối thiểu nhất mà mỗi người cần phải có để sinh sống.

MSTT gồm nhu cầu tiêu dùng về các mặt hàng LTTP và phi LTTP, trong đó tiêu chí để xác định khối lượng các mặt hàng LTTP thiết yếu trong MSTT là lượng Calo mà các mặt hàng này cung cấp để con người có được một thể chất và tâm lý bình thường. Lượng Calo này phụ thuộc vào thể trạng con người ở từng quốc gia, đối với Việt Nam lượng Calo được sử dụng là 2.100 Kcal/1 người/1 ngày. MSTT năm 2018 được tính toán từ dữ liệu chi tiêu trong Khảo sát mức sống dân cư (KSMS) được Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính) thực hiện năm 2018 theo phương pháp “Trị giá các nhu cầu tối thiểu (Cost of Basic Need Method - CBN)”.

Tiêu chí dịch vụ xã hội cơ bản gồm 06 dịch vụ: Việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản gồm 12 chỉ số: việc làm; người phụ thuộc trong hộ gia đình; dinh dưỡng; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin.

Kết quả giảm nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025

Vể tỷ lệ nghèo đa chiều: Theo kết quả rà soát cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 4,03% năm 2022 xuống còn 1,93%; tỷ hệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trung bình 4,3%/năm, từ 21,29% năm 2022 xuống còn 12,55% năm 2024. Dự kiến hết năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều cả nước giảm còn khoảng 0,9-1,1% đạt mục tiêu duy trì mức giảm 1-1,5%/năm, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm. Đặc biệt, từ tháng 4/2024 đến nay, đã có gần 150 nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo được ở trong ngôi nhà mới thông qua Phong trào thi đua “Cả nước chung tay xoá nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước”.

Về mức độ thiếu hụt: Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2022 và năm 2024 thì chỉ số “Việc làm” (Hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động) trong chiều “Việc làm” và chỉ số “Trình độ giáo dục của người lớn” (Hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi không tham gia các khóa đào tạo hoặc không có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục đào tạo so với độ tuổi tương ứng Người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học cơ sở; từ 18 tuổi đến 30 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc sơ cấp/trung cấp/cao đẳng nghề; hoặc người từ 16 tuổi đến 30 tuổi được doanh nghiệp tuyển dụng và chứng nhận đào tạo nghề tại chỗ (hình thức vừa học vừa làm) trong chiều “Giáo dục” là 2 chỉ số mà dân cư có mức độ thiếu hụt nhiều nhất với tỷ lệ hộ thiếu hụt lần lượt là 39,8% và 33,6% năm 2022 và 40,25% và 30,67% năm 2024.

Ngược lại, chỉ số “Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin” (Hộ gia đình không có phương tiện nào trong số các phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Phương tiện dùng chung: Tivi, radio, máy tính để bàn, điện thoại; Phương tiện cá nhân: Máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh) trong chiều “Thông tin” là chỉ số mà dân cư có mức độ thiếu hụt ít nhất với tỷ lệ hộ thiếu hụt lần lượt là 0,7% năm 2022 và 1,07% năm 2024.

Về mức giảm tỷ lệ hộ thiếu hụt của năm 2024 so với năm 2022: Mức giảm tỷ lệ hộ thiếu hụt nhiều nhất là “Bảo hiểm y tế” (Hộ gia đình có ít nhất một người từ đủ 6 tuổi trở lên hiện không có bảo hiểm y tế) trong chiều “Y tế”, với mức giảm là 8,74 điểm %, “Sử dụng dịch vụ viễn thông” trong chiều thông tin giảm 5,31 điểm %, chỉ số “Tình trạng đi học của trẻ em” giảm 1,31 điểm %... phản ánh hiệu quả của các chính sách giảm nghèo giai đoạn 2022-2025.

Một số chỉ số như chỉ số “Nguồn nước sinh hoạt” trong chiều “Nguồn nước và nhà tiêu hợp vệ sinh”, chỉ số “Người phụ thuộc trong hộ gia đình” (Hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%. Người phụ thuộc bao gồm: trẻ em dưới 16 tuổi; người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng) trong chiều “Việc làm” là những chỉ số có mức giảm tỷ lệ hộ thiếu hụt ít nhất, chỉ đạt lần lượt 0,89 và 0,12 điểm % là khá thấp do mức thiếu hụt ở mức thấp (3,0% đối với chỉ số “Nguồn nước sinh hoạt”) hoặc đặc điểm, cơ cấu dân số, gia đình của Việt Nam (chỉ số “Người phụ thuộc trong hộ gia đình”.

Một số điểm mới chuẩn nghèo đa chiều

So với chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020, chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 cố những điểm mới, tiến bộ sau:

Một là, tiêu chí thu nhập chính là mức sống tối thiểu của dân cư, đảm bảo phản ánh đúng chuẩn nghèo tiền tệ theo phương pháp luận của quốc tế (Giai đoạn 2016-2020 chỉ bằng 70% mức sống tối thiểu của dân cư) và có độ tin cậy cao do được tính toán từ số liệu Khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê.

Hai là, việc bổ sung chiều Việc làm gồm 2 chỉ số đo lường: (1) “Việc làm” (hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động); (2) “Người phụ thuộc trong hộ gia đình” (hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%) đảm bảo quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc quy định trong Hiến pháp, Bộ Luật lao động và Luật Việc làm. Do đó, tiêu chí dịch vụ xã hội cơ bản đã tiếp cận được với nhiều dịch vụ xã hội cơ bản và cần thiết hơn so với chuẩn nghèo đa chiều của Việt Nam giai đoạn 2016-2020.

Ba là, một số chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản được sửa đổi, bổ sung nội hàm tiệm cận hơn với chuẩn nghèo đa chiều của quốc tế và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội như: Thay thế chỉ số “Tiếp cận các dịch vụ y tế” bằng chỉ số “Dinh dưỡng”; điều chỉnh nội hàm các chỉ số “Trình độ giáo dục người lớn”, “Tình trạng đi học của trẻ em”, “Chất lượng nhà ở”, “Nguồn nước sinh hoạt”, “Sử dụng dịch vụ viễn thông” và “Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin”.

Mặc dù chuẩn nghèo đa chiều được xây dựng tương đối phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, phản ánh tương đối đầy đủ, chính xác tình trạng nghèo, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách quốc gia giai đoạn 2022-2025 nhưng qua thực tiễn triên khai thực hiên cho thấy chuẩn nghèo bộc lộ một số tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, tiêu chí thu nhập được tính toán từ năm 2018, mặc dù đã được cập nhập chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đảm bảo giá trị thực tế của mức sống tối thiểu của năm đo lường nghèo nhưng chưa thực sự phản ảnh đúng xu hướng của giai đoạn 2022-2025 do xu hướng chi tiêu của năm 2018 (trước đại dịch COVID19) sẽ có sự khác biệt lớn với xu hướng chi tiêu của giai đoạn từ năm 2022 (giai đoạn bình thường sau đại dịch Covid-19).

Thứ hai, việc thu thập thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, điều kiện sống và tài sản của hộ để gián tiếp ước lượng tiêu chí thu nhập còn có sai số so với phương pháp thu thập thông tin trực tiếp các khoản thu nhập của hộ. Tuy nhiên, việc thu thập trực tiếp các khoản thu nhập của hộ không thể áp dụng do không có đủ cơ sở để xác minh tính đầy đủ, chính xác của các thông tin về thu nhập do hộ cung cấp.

Thứ ba, mặc dù đã bổ sung chiều “Việc làm” và sửa đổi, bổ sung các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản tiến bộ và tiệm cận hơn với chuẩn nghèo đa chiều của quốc tế nhưng tiêu chí dịch vụ xã hội cơ bản còn thiếu các chỉ số liên quan đến tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. nội hàm một số chỉ số đo lường nghèo đa chiều khó xác định chính xác, khó kiểm chứng khi thực hiện công tác rà soát, xác định đối tượng như các chỉ số Việc làm, Thẻ bảo hiểm y tế, Trình độ giáo dục của người lớn, Nhà tiêu hợp vệ sinh.

Thứ tư, thực tiễn áp dụng chuẩn nghèo ở nước ta đã phân loại hộ nghèo đa chiều thành 02 nhóm hộ là hộ nghèo và hộ cận nghèo (có chuẩn thu nhập giống nhau nhưng khác khau về chuẩn thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản). Tuy nhiên, việc xác định, phân loại hộ nghèo đa chiều thành 02 nhóm hộ nghèo, hộ cận nghèo trên cơ sở chuẩn thu nhập như nhau, chỉ khác nhau về mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản dẫn tới việc điều tra, rà soát, phân loại hộ nghèo, hộ cận nghèo phức tạp và không phản ánh rõ bản chất nghèo đa chiều; hiện các cơ chế, chính sách, giải pháp giảm nghèo chủ yếu tập trung hỗ trợ hộ nghèo dẫn đến sự bất bình đẳng về thụ hưởng chính sách giữa các nhóm hộ nghèo đa chiều.

Một số đề xuất hướng xác định tiêu chí, chỉ số đo lường trong chuẩn nghèo đa chiều (giai đoạn 2026-2030)

Để tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ xã hội cơ bản theo yêu cầu tại Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24 tháng 11 năm 2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới, cần thiết phải xây dựng, ban hành chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026-2030 làm cơ sở pháp lý cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện mục tiêu giảm nghèo Đảng, Nhà nước giao, chúng tôi cho rằng, nên nghiên cứu, xây dựng tiêu chí, chỉ số đo lường trong chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030 theo hướng sau:

Một là, chuẩn nghèo đa chiều phản ánh khách quan thực trạng nghèo của cả nước làm cơ sở cho việc đưa ra các chính sách, cơ chế, giải pháp thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững; tiêu chí đo lường nghèo đa chiều gồm tiêu chí thu nhập và tiêu chí tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản để xác định, nhận diện chính xác hộ nghèo, bảo đảm phù hợp với phương pháp luận, bản chất nghèo đa chiều.

Hai là, tiêu chí, chỉ số đo lường, xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo phải được xác định, tính toán trên cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2026-2030; tiệm cận và có thể so sánh với quốc tế.

Ba là, tiêu chí thu nhập cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu ở mức phù hợp với điều kiện kinh tê - xã hội giai đoạn 2026-2030. Trong đó, đối với các hộ gia đình có thu nhập dưới chuẩn mức sống tối thiểu đều được xác định là hộ nghèo (không xét mức hộ thiếu hút các dịch vụ xã hội cơ bản nhưng vẫn thu thập thông tin để thực hiện các giải pháp hỗ trợ); hộ gia đình có mức thu nhập từ mức sống từ mức sống tối thiếu đến mức chuẩn thu nhập được xác định là hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo sau khi xem xét mức độ thiếu hụt các chỉ số tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Bốn là, nâng cao chất lượng một số chỉ số đo lường hiện nay (diện tích nhà ở bình quân, chất lượng sử dụng dịch vụ viễn thông, chất lượng nguồn nước sinh hoạt, chất lượng nhà vệ sinh), đồng thời loại bỏ các chỉ số dịch vụ xã hội cơ bản mà hầu hết người dân đã được tiếp cận (phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin, chất lượng nhà ở) và bổ sung một số chiều, chỉ số về môi trường để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng trưởng xanh, bền vững./.

Ths. Nguyễn Thế Quân - Ths. Nguyễn Hữu Điệp

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Phát động Cuộc thi viết “Vượt lên số phận” lần thứ VIII

Long An: Top 2 địa phương cải cách mạnh nhất theo PCI 2005 - 2024

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to

Thời tiết ngày 11/5: Mưa to trải dài khắp đất nước, nhiều nơi mưa trên 60mm