
Phát huy vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam
28/02/2025TN&MTSử dụng các công cụ chính sách, đặc biệt là công cụ kinh tế dựa vào các nguyên tắc, qui luật của kinh tế thị trường kết hợp với các công cụ khác như mệnh lệnh - hành chính, công nghệ - kỹ thuật, truyền thông nâng cao nhận thức,… ngày càng được sử dụng phổ biến và khẳng định được vai trò trong điều chỉnh hành vi của người sản xuất, người tiêu dùng nhằm thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Vai trò của các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Hiện nay, xu thế hội nhập các hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra đều tuân thủ theo nguyên tắc, quy luật của thị trường. Nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế (CCKT) để khắc phục và điều tiết những khiếm khuyết của thị trường trên do tính linh hoạt hơn so với các chính sách mệnh lệnh kiểm soát (CAC) mang tính truyền thống bởi một số lý do sau: Các CCKT cho phép lồng ghép các chi phí thiệt hại về môi trường vào giá cả hàng hóa trên thị trường; các CCKT khuyến khích người tiêu dùng không tiêu thụ các sản phẩm gây thiệt hại đến môi trường và khuyến khích các nhà sản xuất không sử dụng các nguyên liệu gây ô nhiễm môi trường; các CCKT khuyến khích các nhà sản xuất, các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ mới, hạn chế tối đa chất thải đưa ra môi trường; các CCKT góp phần tạo nguồn tài chính mới cho đầu tư vào các hoạt động BVMT, khuyến khích tuân thủ pháp luật môi trường, hỗ trợ thực hiện các hoạt động khác trong phạm vi kế hoạch phát triển của Nhà nước; thể chế hóa các nguyên tắc “người gây ô nhiễm môi trường và suy thoái tài nguyên phải trả chi phí khắc phục và tái tạo”; “người sử dụng, hưởng lợi từ TN&MT phải trả tiền” (BPP). Cùng với đó, các cơ chế tài chính tạo động lực thị trường để huy động sự tham gia của các thành phần xã hội vào BVMT.
Thông thường có 3 nhóm công cụ được sử dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến để kiểm soát ô nhiễm môi trường, gồm: Nhóm các công cụ pháp lý; công cụ kinh tế (CCKT); và công cụ thuyết phục, tuyên truyền vận động và giáo dục. CCKT hay công cụ dựa vào thị trường là các công cụ chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức kinh tế để điều chỉnh hành vi buộc các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế trong BVMT rất đa dạng như thuế, phí môi trường, quỹ môi trường, hạn ngạch gây ô nhiễm, ký quỹ môi trường, các hệ thống đặt cọc - hoàn trả, trợ cấp và các cơ chế tài chính khác.
Trong thực tiễn, pháp luật về môi trường hiện hành đã và đang triển khai các CCKT như thuế, phí BVMT; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản; ký quỹ nhập khẩu phế liệu; nhãn sinh thái, mua sắm công xanh; quỹ BVMT các cơ chế phát triển sạch, cơ chế tín chỉ chung trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính,... Qua rà soát, đánh giá áp dụng các CCKT, có thể nhận thấy: Thuế, phí, lệ phí, chi trả dịch vụ môi trường,… không chỉ là công cụ bảo đảm nguồn thu cho ngân sách; CCKT ở các lĩnh vực BVMT đã được hoàn thiện theo hướng ngày càng phù hợp, đúng bản chất hơn của KTTT cũng như thực thi các nguyên tắc về PPP và BPP trong BVMT; các chính sách ưu đãi đã được quy định rõ trong các văn bản và triển khai trên thực tiễn đã góp phần huy động sự tham gia của doanh nghiệp, người dân và các tổ chức trong BVMT và ứng phó với BĐKH; thu - chi ngân sách nhà nước đối với các hoạt động BVMT từng bước được đổi mới, hoàn thiện và đa dạng hơn.
Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu ở trên thì vẫn tồn tại một số vấn đề đặt ra trong áp dụng CCKT ở Việt Nam như sau: Thuế BVMT tập trung chủ yếu vào mục tiêu gia tăng nguồn thu cho ngân sách hơn là tạo điều chỉnh hành vi người sản xuất, người tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; đối tượng chịu thuế, mức thuế áp dụng chưa phù hợp, chưa phản ánh đầy đủ chi phí thiệt hại biên để tăng hiệu quả của thuế; phương pháp tính phí, mức phí BVMT được áp dụng tương đối thấp, chưa bao hàm đầy đủ các chi phí cung cấp dịch vụ và thiệt hại môi trường; các chính sách ưu đãi, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động BVMT còn thiếu rõ ràng, khó áp dụng nên chưa tạo ra đột phá để huy động sự tham gia của xã hội vào công tác BVMT; một số công cụ như chứng nhận sản phẩm thân thiện môi trường, ký quĩ cải tạo, phục hồi môi trường; đặt cọc - hoàn trả đã được qui định nhưng triển khai còn bất cập; nhiều công cụ mới đã xuất hiện và được đánh giá có tiềm năng như tín dụng xanh, trái phiếu xanh, tiêu dùng xanh nhưng lại thiếu cơ sở pháp lý.
Giải pháp phát huy vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Để phát huy được vai trò của các CCKT trong quản lý môi trường phù hợp với bối cảnh phát triển KT-XH giai đoạn tới, một số đề xuất như sau:
Thứ nhất, xây dựng lộ trình, giải pháp tổng thể áp dụng các CCKT ở Việt Nam phù hợp với chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Trong đó, cần có lộ trình cụ thể chuyển đổi một số loại phí BVMT sang thuế BVMT phù hợp với điều kiện KT-XH, điều kiện công nghệ, năng lực quản trị môi trường của đất nước ở từng giai đoạn để phát huy sức mạnh của thuế.
Thứ hai, hoàn thiện và bổ sung các qui định về CCKT cụ thể trong pháp luật BVMT phù hợp với thực tiễn để tạo động lực, thay đổi hành vi của tổ chức, cá nhân:
Bổ sung, chỉnh sửa các CCKT đã có: xây dựng lộ trình chuyển đổi một số loại phí chất thải sang thuế dựa vào chất thải và có lộ trình áp dụng thuế các-bon đối với các ngành, lĩnh vực, cơ sở phù hợp với điều kiện phát triển công nghệ, thông tin dữ liệu, nhân lực,…; áp dụng đồng bộ cơ chế đặt cọc, hoàn trả linh hoạt, phù hợp với vòng đời, đặc trưng về phân phối của từng loại sản phẩm; mở rộng đối tượng áp dụng đối với ký quỹ phục hồi môi trường như sản xuất hóa chất độc hại; khai thác tài nguyên nước; các dự án tác động đến môi trường đất; mở rộng áp dụng chi trả dịch vụ hệ sinh thái để đảm bảo công bằng, tạo nguồn lực để duy trì, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên; đổi mới cách thức tổ chức, kiểm tra, giám sát, chứng nhận việc cấp nhãn sinh thái.
Bổ sung các CCKT mới có tiềm năng như: Chính sách về tiêu dùng xanh, đặc biệt là chi tiêu công xanh để khuyến khích phát triển thị trường các sản phẩm thân thiện môi trường; tín dụng xanh, trái phiếu xanh để phát triển loại hình các sản phẩm tài chính tiềm năng này góp phần huy động nguồn lực, giảm thiểu rủi ro về môi trường từ ngay trong quá trình vay vốn của các dự án, thúc đẩy đầu tư vào các hoạt động BVMT.
Thứ ba, ứng dụng mạnh thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Kỷ nguyên kinh tế số vào trong công tác quản lý, quan trắc, giám sát, đánh giá, thu thập thông tin việc chấp hành các qui định pháp luật về BVMT ở Việt Nam.
Thứ tư, kết hợp hiệu quả, đồng bộ trong sử dụng CCKT với các công cụ khác như thanh tra, kiểm tra, xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.
Thứ năm, tăng cường liên kết giữa các bộ, ngành trong xây dựng lộ trình và giải pháp chính sách nhằm tái cấu trúc lại hệ thống các CCKT trong BVMT nói riêng và trong tổng thể các CCKT để thúc đẩy tính hiệu lực, hiệu quả trong điều chỉnh hành vi theo hướng thân thiện với môi trường.
ThS. VÕ NHƯ ÁNH
Trung tâm Quy hoạch và Điều tra
Tài nguyên, môi trường biển khu vực phía Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 24 (Kỳ 2 tháng 12) năm 2024