
Phát triển kinh tế biển và khát vọng vươn khơi
14/09/2021TN&MTThế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế biển. Biển và đại dương chiếm khoảng 70% diện tích địa cầu, nhưng mới chỉ đóng góp khoảng 1,7% khối lượng thực phẩm của thế giới, trong đó, sản phẩm nuôi biển chỉ mới chiếm chưa đầy 0,5%.
Nguồn lợi sinh vật của đại dương đang bị khai thác quá mức, mất khả năng tự tái tạo, ảnh hưởng rất xấu đến tính cân bằng của hệ sinh thái biển và đại dương. Vì thế, nhân loại cần “canh tác biển” và đại dương để tạo ra của cải vật chất cho nhân loại.
Hiện trạng nghề nuôi biển
Theo FAO, trong giai đoạn 2004 – 2008, mới có 93/165 quốc gia và vùng lãnh thổ có biển tiến hành hoạt động nuôi biển, với sản lượng trung bình hằng năm là 29.976.736 tấn. Tuy nhiên, gần như toàn bộ hoạt động nuôi biển hiện đang diễn ra ở những khu vực tương đối hẹp, kín sóng gió ở gần bờ, nơi diễn ra rất nhiều hoạt động kinh tế, công nghiệp, thương mại, quốc phòng, an ninh (như: Hàng hải, du lịch, khai thác dầu khí và khoáng sản, các khu bảo tồn biển…). Những hoạt động này mang tính mâu thuẫn, cạnh tranh, xung đột với nuôi biển, làm giảm đi đáng kể diện tích ven bờ dành cho nuôi biển.
Trong khi dân số ngày càng tăng nhanh, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm hải sản đang tăng cao và rất đa dạng, khiến mâu thuẫn cung – cầu về hải sản trên thị trường thế giới trở nên gay gắt. Theo FAO, đến năm 2030, thế giới cần thêm 19 triệu tấn hải sản so với 2015 mới bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng. Dự báo đến năm 2050, thị trường thế giới cần sản lượng đạm động vật gấp 1,7 lần hiện nay, trong đó nguồn cung cấp chính là nuôi hải sản từ đại dương.
Việt Nam là quốc gia thứ 4 thế giới về nuôi trồng thủy sản. Từ năm 2007, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đã vượt trên sản lượng khai thác thủy sản. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vượt 9 tỷ USD năm 2018, đứng thứ 5 thế giới. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng hải sản khai thác từ biển ngày càng hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thủy sản. Riêng về hải sản, mức độ đáp ứng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến hải sản chỉ ở mức dưới 20% công suất thiết kế của nhà máy. Đói nguyên liệu đang là một nguyên nhân chính hạn chế hiệu quả của ngành chế biến xuất khẩu hải sản. Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển nuôi biển.
Trong vài chục năm qua, nuôi biển Việt Nam đã tự phát khởi đầu, cả nước có khoảng 50.000 hộ ngư dân nuôi hải sản ở vùng ven bờ, với quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, phát sinh dịch bệnh, hiệu quả kinh tế không bền vững.
Chuyển dần từ việc khai thác và nuôi biển thủ công ven bờ sang nuôi biển công nghiệp ở vùng xa bờ là hướng phát triển bền vững, mang tính đột phá cho kinh tế và quốc phòng của đất nước. Việt Nam đang ở điểm khởi đầu của nuôi biển công nghiệp ở vùng xa bờ và đại dương, với nhiều thách thức như: Thiếu kế hoạch phát triển nuôi biển quốc gia, thiếu chính sách khuyến khích và ưu tiên nhằm thu hút đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp; công cụ quản lý nhà nước về biển còn yếu và không có cơ chế đồng quản lý hiệu quả; lực lượng sản xuất nuôi biển quá mỏng, trình độ công nghệ lạc hậu, mới có ít doanh nghiệp nuôi biển; hệ thống cảnh báo và kiểm soát an ninh lạc hậu, thách thức lớn cho việc nuôi xa bờ; rủi ro do ô nhiễm môi trường biển cao, suy giảm nguồn lợi biển ngày càng nghiêm trọng, quản lý môi trường biển lỏng lẻo; quan hệ liên kết trong chuỗi giá trị nuôi biển (giữa trại nuôi với hệ thống cung cấp thức ăn, giống, chế biến, tiêu thụ, phân phối…) chưa được xây dựng.
Nuôi biển xa bờ là xu hướng phát triển chung trên thế giới và có khả năng tạo ra đột phá kinh tế. So với nuôi động vật trên cạn, nuôi biển được đánh giá cao hơn về hiệu quả kinh tế – môi trường, do có năng suất cao hơn, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn (FCR của cá biển sử dụng thức ăn viên chỉ từ 1,0 – 2,5; trong khi động vật trên cạn 4,0 – 8,0), lại ít gây tác hại tới môi trường. Ngoài cá, có thể phát triển nuôi với sản lượng rất lớn những loài thủy sản ăn lọc, tận dụng thức ăn tự nhiên, như các động vật thân mềm (hàu, vẹm, nghêu, sò, trai, ốc…). Trồng rong biển có thể đạt 400 kg protein/ha/năm (so với trồng cây trên đất chỉ thu 16kg/ha/năm) mà không tốn phân, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới, lại có tác dụng rất lớn làm giảm CO2 và hấp thu các tác nhân gây ô nhiễm khác trong khí quyển và đại dương.
Kết quả đánh giá tiềm năng nuôi biển toàn cầu và nhiều quốc gia cho thấy, tiềm năng nuôi biển xa bờ là rất lớn, ngay cả với trình độ công nghệ hiện tại. Đặc biệt, với đa dạng sinh học, tiềm năng nuôi biển xa bờ đối với các loài hải sản vùng nước cận nhiệt đới và nhiệt đới lớn hơn hẳn vùng nước ôn đới.
Tiềm năng nuôi biển xa bờ là diện tích biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (vùng EEZ), tức ở khoảng cách từ 3 đến 200 hải lý tính từ bờ, đáp ứng được các ngưỡng giới hạn về độ sâu, tốc độ dòng chảy và chi phí hiệu quả thích hợp với các phương pháp nuôi. Với các công nghệ nuôi biển hiện nay, khu vực đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí nói trên thường chỉ chiếm 0,1% tổng diện tích EEZ.
FAO cho rằng, ngay cả với diện tích rất nhỏ ấy cũng có thể đóng góp bền vững vào việc tăng sản lượng thực phẩm cho nhân loại. Năng suất nuôi cá biển (thí dụ: Cá chim, cá vược, cá hồng Mỹ, cá giò) ở vùng nhiệt đới hiện tại là khoảng 9.900-12.000 tấn/km2. Như vậy, chỉ với 1.000 km2 biển (tương đương 0,1% diện tích vùng EEZ của Việt Nam) cũng có thể cho sản lượng 10-12 triệu tấn cá biển nuôi mỗi năm.
Trong tương lai, những tiến bộ công nghệ sẽ mở rộng đáng kể tiềm năng nuôi biển xa bờ. Thí dụ, việc tăng độ sâu của hệ thống neo đối với lồng và dây treo, từ giới hạn 100 m lên 150 m sẽ giúp mở rộng diện tích phù hợp để phát triển nuôi biển lên 31%, hay gần 4,2 triệu km2. Các trại nuôi thả trôi ngoài khơi hoặc được trang bị động cơ đẩy cũng có thể mở ra một khu vực nuôi biển rộng lớn trong vùng EEZ, đến 158 triệu km2 trên toàn cầu. Để khai thác những tiềm năng to lớn ấy, hiện đang có nhiều quốc gia chạy đua phát triển nuôi biển công nghiệp xa bờ. Việt Nam chắc chắn cũng không thể nằm ngoài xu thế ấy.
Cộng đồng 180 doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ, các nhà khoa học và chuyên gia thành viên của Hiệp hội nuôi biển nhận thức rằng Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng để phát triển nuôi biển công nghiệp, tiến ra làm chủ vùng đặc quyền kinh tế rộng gấp ba diện tích đất liền, làm giàu cho dân, đưa nước ta thành quốc gia hàng đầu thế giới về nuôi biển.
Chuyển hướng để đột phá của Việt Nam
Phát triển nuôi biển công nghiệp là giải pháp chiến lược tạo đột phá để giải quyết về cơ bản những hạn chế của nghề cá ven bờ tại Việt Nam, chủ động tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm, phát điện, phân bón sinh học, giảm phát thải khí nhà kính, quản lý tốt hơn môi trường biển, tạo công ăn việc làm mới cho hàng chục vạn ngư dân, tăng cường sự hiện diện thường xuyên của ngư dân trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam theo phương thức rất hòa bình và thân thiện, đưa Việt Nam trở thành cường quốc trên thế giới về nuôi biển. Theo đó, Hiệp hội Nuôi biển đã khởi thảo trình Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược Phát triển Nuôi biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, hiện đang được Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt dưới dạng một Đề án phát triển. Mục tiêu nhằm sắp xếp lại để ổn định vùng nuôi có hiệu quả ven biển, đảo gần bờ, bảo đảm môi trường sinh thái; phát triển mạnh theo hướng bền vững nuôi biển công nghiệp vùng xa bờ, hình thành ngành sản xuất hàng hóa tập trung, với quy mô lớn, công nghệ ngày càng hiện đại, năng suất cao, sản phẩm đa dạng, có khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới, gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái, quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo của đất nước, góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
Cụ thể đến 2030, diện tích nuôi biển đạt 300.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3, sản lượng đạt 1.750.000 tấn, giá trị xuất khẩu hải sản nuôi đạt 4 – 6 tỷ USD. Trong đó, riêng về nuôi biển xa bờ có sản lượng 690.000 tấn.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có nền công nghiệp nuôi biển tiên tiến, phát triển bền vững, với công nghệ hiện đại và phương thức quản lý khoa học, trở thành bộ phận chính của kinh tế biển nước ta, đưa Việt Nam trở thành quốc gia hàng đầu về công nghiệp nuôi biển trong khối ASEAN, đứng trong top 5 trên thế giới về sản lượng và giá trị xuất khẩu hải sản nuôi. Sản lượng nuôi biển đạt 3,0 – 4,0 triệu tấn/năm; giá trị thương mại và xuất khẩu trên 10 tỷ USD.
Phát triển nuôi biển công nghiệp Việt Nam là một cuộc cách mạng mang ý nghĩa đột phá cho kinh tế biển Việt Nam. Nội hàm chủ yếu của cuộc cách mạng đó tập trung chung quanh “tam giác thể chế phát triển”, với chủ thể là doanh nghiệp; động lực là công nghệ tiên tiến; và phương thức chủ yếu là tích hợp đa ngành.
Đề xuất với các bộ, ngành có liên quan
Chính phủ tổ chức xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Phát triển Nuôi biển Công nghiệp đến năm 2030, thiết lập khung chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển cộng đồng doanh nghiệp nuôi biển (giao quyền sử dụng, cho thuê mặt nước biển, hỗ trợ lãi suất, tiếp cận vốn tín dụng trung dài hạn, ưu đãi thuế); hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các chuỗi giá trị nuôi biển (từ sản xuất con giống, thức ăn, nuôi trồng, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến, xuất nhập khẩu, phân phối, dịch vụ), cơ chế khuyến khích tích hợp đa ngành và hợp tác quốc tế để tranh thủ công nghệ hiện đại, bảo đảm khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững.
Bộ TN&MT xây dựng quy hoạch không gian biển căn cứ trên việc đánh giá sức tải môi trường các vùng biển, đồng thời tăng cường năng lực cho hệ thống quốc gia giám sát và cảnh báo môi trường biển.
Bộ NN&PTNT khẩn trương hoàn thiện Đề án chiến lược Phát triển Nuôi biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 và tổ chức thực hiện, xây dựng Chính sách Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vùng nuôi biển công nghiệp tập trung theo Nghị quyết số 836/ 2019/NQ-BCSĐ ngày 17/7/2019 của Ban cán sự Đảng Bộ NN&PTNT.
Bộ Quốc phòng nghiên cứu xây dựng Tập đoàn Công nghiệp Nuôi biển Quốc gia, đủ năng lực tài chính và công nghệ, làm nhiệm vụ kinh tế kết hợp quốc phòng, dẫn dắt phát triển nuôi biển xa bờ, trên cơ sở Tổng Công ty Tân Cảng, các Hải đoàn 128-129 và một số nhà máy công nghiệp quốc phòng và các doanh nghiệp khác.
Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia phục vụ phát triển nuôi biển công nghiệp 2021-2030; phối hợp với Bộ NN&PTNT tổ chức thực hiện việc chuyển các viện, trung tâm, phân viện nghiên cứu ngành thủy sản thành các doanh nghiệp khoa học công nghệ, cung cấp giống hải sản và dịch vụ công nghệ cao cho các doanh nghiệp nuôi biển công nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường, trước hết là Đại học Nha Trang xây dựng Chương trình đào tạo đại học Ngành Nuôi biển công nghiệp.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chỉ đạo Tổng cục Giáo dục Nghề nghiệp xây dựng Đề án đào tạo nhân lực nuôi biển chuyên nghiệp, gồm công nhân nuôi biển, quản lý trại, công nhân công nghiệp phụ trợ nuôi biển công nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư có chính sách thu hút các quốc gia tiên tiến về nuôi biển (Na Uy, Hoa Kỳ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc…) để đẩy mạnh việc tiếp thu các công nghệ nuôi biển tiên tiến, hợp tác với các tập đoàn quốc tế sản xuất trang thiết bị phục vụ nuôi biển, xây dựng các dự án liên doanh nuôi biển công nghiệp (nhất là với Hoa Kỳ) trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam xây dựng đề án thành lập Quỹ Khởi nghiệp và Phát triển Nuôi biển Công nghiệp – tổ chức hợp tác công – tư (PPP) với nguồn kinh phí chủ yếu do doanh nghiệp đóng góp theo quy định (thí dụ: 1% giá trị xuất khẩu), cùng tài trợ ban đầu của Nhà nước và hỗ trợ quốc tế. Quỹ sẽ cung cấp tài chính cho doanh nghiệp nuôi biển công nghiệp và các tổ chức marketing quốc gia, có nhiệm vụ phát triển thương hiệu “Hải sản Tinh túy Việt Nam”.
PGS.TS. NGUYỄN HỮU DŨNG – Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam