Xả chất thải hạt nhân xuống biển, Việt Nam có bị ảnh hưởng?

23/10/2021

TN&MTThủ tướng Nhật bản Yoshihide Suga trong cuộc họp nội ngày 13/4/2021 cho biết: Việc xử lý nước thải từ Nhà máy Daiichi ở Fukushima bị tàn phá sau thảm họa động đất, sóng thần cách đây 10 năm là một vấn đề nan giải của Nhật Bản.

Xả chất thải hạt nhân xuống biển, Việt Nam có bị ảnh hưởng?

Ảnh minh họa

Xử lý số nước thải này là một việc không thể né tránh. Chính phủ Nhật Bản đã tổng hợp các chính sách cơ bản về việc xả nước đã xử lý ra đại dương, sau khi đảm bảo mức an toàn của nước. Như vậy, hơn 1,2 triệu tấn nước đang chứa trong các bồn lớn tại Nhà máy Daiichi, gồm nước dùng để làm mát trong nhà máy, nước mưa và nước ngầm. Tokyo vẫn đang lọc nước từ nhà máy mỗi ngày sẽ được thải ra biển. Thông tin này khiến những quốc gia có biển đưa ra nhiều phản ứng lo ngại, trong đó có Việt Nam.

Trước thông tin này, chúng tôi đã có cuộc gặp gỡ PGS.TS. Vũ Thanh Ca - Nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và Khoa học Công nghệ (Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam); Giảng viên cao cấp Khoa Môi trường, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội để lắng nghe quan điểm của ông về thông tin này.

Phóng viên: Thưa ông, dư luận hiện đang quan tâm tới việc Nhật Bản sẽ xả 1 triệu tấn nước đã xử lý từ nhà máy hạt nhân ở Fukushima ra biển. Việc xả chất thải sẽ ảnh hưởng đến môi trường biển như thế nào?

PGS. TS. Vũ Thanh Ca: Nước thải nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi mà Chính phủ Nhật dự kiến sẽ xả ra Thái Bình Dương là nước làm mát, đã được xử lý để loại bỏ tất cả các loại chất phóng xạ ngoại trừ Tritium, một chất đồng vị phóng xạ hiếm của Hydro. Nguyên tử của Tritium chứa 1 proton và 2 neutron. Chất này thường được sử dụng để làm chất dạ quang cho các thiết bị phát sáng trong bóng tối, như đồng hồ dạ quang. Trong nước, tritium tạo thành hỗn hợp của nước tinh khiết và nước siêu nặng (HTO).

Tritium không phát ra lượng tia beta có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người vì các tia beta do nó phát ra không xuyên được qua da người. Tuy nhiên, nó có thể gây hại nếu được uống, ăn và hấp thụ qua da. Chu kỳ bán phân rã của HTO trong cơ thể con người khoảng từ 7 đến 14 ngày, do vậy tác động của nó đối với một lần phơi lộ nồng độ thấp là không quá lớn, và nó cũng không có khả năng tích lũy sinh học.

Phóng viên: Theo Chính phủ Nhật, số nước thải này đã được xử lý loại bỏ hầu hết phóng xạ như strontium, cesium. Tuy nhiên, ý kiến trên đã vấp phải sự phản đối từ các cộng đồng đánh bắt cá ở Nhật Bản, cũng như lo ngại từ các nước láng giềng, bởi trong nước thải vẫn còn tritium ở nồng độ thấp và sẽ ảnh hưởng nhất định đến môi trường?

PGS. TS. Vũ Thanh Ca: Theo báo cáo của Chính phủ Nhật Bản, hiện có 860.000 m3 nước làm mát chứa tổng cộng 760 TBq Tritium. Như vậy, nồng độ của Tritium trong nước làm mát nhà máy điện hạt nhân là 884.000 Bq/l. Các nước khác nhau có các tiêu chuẩn rất khác nhau về Tritium. Ví dụ, nước uống ở Úc đòi hỏi có nồng độ Tritium nhỏ hơn 76.103Bq/l. Ở Mỹ và Phần Lan, con số này lần lượt là 740 và 100. Từ đó, ta có thể thấy nồng độ Tritium trong nước làm mát của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi của Nhật Bản lớn so với yêu cầu trong nước uống ở Úc 11,6 lần, Mỹ 1.194 lần và Phần Lan 8.840 lần.

Mặc dù nước bị ô nhiễm Tritium với nồng độ khá cao, nhưng khi xả nước này ra các vùng biển xa bờ, các quá trình động lực sóng và dòng chảy mạnh mẽ sẽ nhanh chóng xáo trộn nước thải và giảm nồng độ phóng xạ xuống dưới mức yêu cầu để uống.

Hiện nay, nhiều nước có nhà máy điện hạt nhân đang xả nước làm mát có chứa Tritium ra môi trường. Thí dụ, Pháp hàng năm xả ra eo biển Anh lượng nước làm mát có chứa tới 11.400 TBq, tức là bằng 15 lần lượng Tritium mà Chính phủ Nhật dự kiến sẽ xả ra Thái Bình Dương. Ba nhà máy điện hạt nhân của Canada hàng năm cũng xả ra Ngũ Đại Hồ nằm giữa Canada và Mỹ lượng titium tổng cộng 1.116TBq, tức là 1,47 lượng Tritium hiện chứa trong nước làm mát của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Ngoài ra, đã có nhiều sự cố làm thoát nước làm mát nhà máy điện hạt nhân có chứa Tritium ra ngoài.

Các nghiên cứu hiện nay trên thế giới chỉ mới cho thấy tác động xấu của tia beta do Tritium phát ra với sức khỏe con người. Hơn nữa, Tritium khi được thải ra môi trường sẽ nhanh chóng tham gia chu trình nước của Trái đất và không bị tích lũy ở bất cứ đâu. Vì vậy, các kết quả nghiên cứu cho đến nay cho thấy nếu Chính phủ Nhật Bản lựa chọn giải pháp xả ra môi trường phù hợp, việc xả nước làm mát có chứa Tritium ra môi trường có thể sẽ không gây ra những tác động môi trường đáng kể.

Phóng viên: Toàn bộ quá trình xả thải có thể kéo dài hàng thập kỷ, nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái biển. Là quốc gia có bờ biển dài, Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng như thế nào, thưa ông?

PGS. TS Vũ Thanh Ca: Như tôi đã nói ở trên, từ trước đến nay, một lượng rất lớn Tritium đã được xả liên tục ra đại dương thế giới hoặc hồ nhưng cho tới hiện tại chưa có bằng chứng khoa học là lượng Tritium đã được xả ra gây ảnh hưởng tới hệ sinh thái. Việt Nam ta ở rất xa Nhật Bản và ở bên cạnh Biển Đông. Khi chất phóng xạ được dòng chảy biển vận chuyển từ Nhật Bản về khu vực eo Luzon và các khu vực khác mà ở đó có sự trao đổi nước giữa Biển Đông và Thái Bình Dương, nồng độ chất phóng xạ đã nhỏ tới mức bình thường. Vì vậy, việc xả nước làm mát nhà máy nhiệt điện Fukushima Daiichi tại khu vực Thái Bình Dương gần Nhật Bản không ảnh hưởng đáng kể gì tới môi trường và các hệ sinh thái vùng biển Việt Nam.

Phóng viên: Với trình độ khoa học công nghệ cao hiện nay, liệu những quốc gia có biển có nên xem như đây là một việc nên làm và chấp nhận để sống chung và khai thác thuỷ - hải sản bình thường, thưa ông?

PGS. TS Vũ Thanh Ca: Thực tế là hiện nay có nhiều nước đang xả thải nước làm mát ra môi trường với mức độ xả thải khác nhau. Các nghiên cứu lý thuyết cũng như các đo đạc thực tế ngoài hiện trường chưa cho thấy các tác động của việc xả nước làm mát tới môi trường, sinh thái. Hơn nữa, Nhật Bản trong tương lai sẽ hết khả năng giữ lượng nước này nên việc đổ thải ra biển gần như là một giải pháp không thể tránh khỏi.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu nhưng rất có thể vẫn cần có thêm các nghiên cứu bài bản về tác động môi trường của Tritium đối với con người và các hệ sinh thái. Tôi cho rằng vẫn có tiềm năng là chất ô nhiễm này có những tác động có hại tới môi trường, sinh thái và sức khỏe con người. Vì vậy, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, không nên đổ nước làm mát nhiễm Tritium của các nhà máy điện hạt nhân ra biển.

Phóng viên: Thưa ông, chúng ta có cách gì ngăn ngừa, giảm thiểu những tác hại do ảnh hưởng từ việc xả thải từ nhà máy hạt nhân của Nhật Bản trong tương lai?

PGS. TS. Vũ Thanh Ca: Công nghệ hiện nay chưa cho phép giữ an toàn cho lò phản ứng hạt nhân nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi mà không cần dùng nước làm mát. Vì vậy, việc xả nước thải ra biển trước hay sau vẫn phải làm.

Để giảm thiểu tác hại, cần đảm bảo nước ô nhiễm phải xả ở xa bờ, tại các vùng biển thoáng, có độ sâu lớn. Tốc độ xả thải cũng phải chậm để các quá trình động lực biển có thể xáo trộn ngay nước ô nhiễm với nước trong môi trường xung quanh, đảm bảo nồng độ chất ô nhiễm giảm rất nhanh tới mức cho phép.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông.

H. Minh (thực hiện)

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

TP. Hồ Chí Minh: Khai mạc chuỗi sự kiện chào mừng kỷ niệm 327 năm hình thành và phát triển

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Nông nghiệp

Từ Biên bản ghi nhớ đến hành động: Lâm Đồng phát triển công nghệ sinh học nông nghiệp

Tôi là phóng viên OCOP: Hành trình trọn vẹn đam mê và truyền lửa

Lâm Hà công nhận 56 sản phẩm OCOP

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Tài nguyên

Vì sao Thanh Hóa giàu tài nguyên nhưng vẫn khan hiếm vật liệu xây dựng?

Thẩm định các đề án thăm dò khoáng sản tại hai địa phương

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Môi trường

Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng bền vững tại Thái Nguyên

Lạng Sơn đón nhận Danh hiệu Công viên địa chất toàn cầu UNESCO

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Bà Rịa - Vũng Tàu: Nhiều bất cập không được thống nhất tại buổi tiếp công dân

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Thời tiết ngày 29/6: Bắc Bộ cục bộ mưa rất to, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt