
Bài 1: Tham vấn Đề án trồng trọt giảm phát thải: Gắn kết trung ương - địa phương - doanh nghiệp vì mục tiêu xanh
04/08/2025TN&MTTrong bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính và đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức Hội nghị tham vấn về Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025-2030 vào ngày 30/7/2025. Hội nghị quy tụ đại diện từ các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và giới khoa học, nhằm lấy ý kiến rộng rãi, đa chiều cho một trong những chiến lược trọng tâm thúc đẩy nông nghiệp xanh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Những nội dung được thảo luận không chỉ đặt nền móng cho định hướng chính sách trong giai đoạn tới, mà còn thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong lộ trình thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050.
Nhìn lại Hội nghị tham vấn ngày 30/7/2025
Hội nghị tham vấn Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải khí nhà kính giai đoạn 2025-2030 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 30/7/2025 không chỉ là sự kiện đánh dấu một bước đi chiến lược, mà còn là diễn đàn đối thoại chính sách quan trọng giữa các cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia, tổ chức quốc tế và doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung phát biểu tại Hội nghị
Phát biểu tại Hội nghị tham vấn Dự thảo Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải sáng 30/7, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung đã nhấn mạnh, chuyển đổi mô hình trồng trọt theo hướng phát thải thấp không chỉ là nhu cầu cấp bách mà còn là động lực chiến lược để nâng cao giá trị gia tăng và uy tín nông sản Việt trên thị trường quốc tế. Trồng trọt là lĩnh vực phát thải lớn, nhưng cũng là nơi có tiềm năng giảm phát thải lớn nhất nếu được tổ chức và định hướng đúng.
Theo thống kê năm 2020, Việt Nam phát thải khoảng 454,6 triệu tấn CO2 tương đương, trong đó riêng ngành nông nghiệp chiếm hơn 116 triệu tấn và riêng hoạt động trồng lúa chiếm đến 77 triệu tấn. Với tốc độ tăng trưởng phát thải gần gấp đôi so với năm 2010, Thứ trưởng Hoàng Trung cảnh báo, nếu không có hành động kịp thời, tổng phát thải quốc gia vào năm 2030 có thể chạm ngưỡng 1 tỷ tấn CO2.
Đề án mới do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, đặt mục tiêu giảm ít nhất 10% lượng phát thải trong lĩnh vực trồng trọt đến năm 2030, tương đương khoảng 6-8 triệu tấn CO2. Để hiện thực hóa mục tiêu này, dự thảo Đề án sẽ tập trung vào các cây trồng chủ lực có mức phát thải cao như lúa nước, ngô, hồ tiêu, cà phê, thanh long, chuối, cây ăn quả có múi và cây công nghiệp dài ngày.
Hội nghị đã diễn ra ngày 30/7, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung chủ trì
Tại Hội nghị, đại diện các Cục, Vụ chuyên môn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình bày các nội dung chính của dự thảo Đề án, trong đó xác định rõ: đến năm 2030, ngành trồng trọt phải cắt giảm ít nhất 10% phát thải khí nhà kính so với năm 2020, tương đương khoảng 17 triệu tấn CO₂eq. Để đạt được mục tiêu này, Đề án đề xuất hệ thống các nhóm giải pháp đồng bộ, bao gồm: điều chỉnh cơ cấu cây trồng theo hướng thích ứng biến đổi khí hậu, ứng dụng công nghệ tiết kiệm nước, phân bón, thay đổi quy trình canh tác theo hướng phát thải thấp và đẩy mạnh hợp tác công- tư (PPP) trong chuỗi giá trị nông sản xanh.
Điểm nhấn đáng chú ý của Hội nghị là có sự tham gia của một số tổ chức quốc tế như FAO, IRRI, JICA, cùng nhiều doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Các đại biểu đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ứng dụng thành công tại Việt Nam. Trong đó, đại diện IRRI đánh giá cao chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao giảm phát thải của Việt Nam, coi đây là mô hình tiên phong, cần được nhân rộng sang các vùng trồng trọt khác như ngô, rau màu, cây ăn quả.
Khi được hỏi tham vấn góp ý cho đề án này, một số địa phương như Kiên Giang, Cà Mau, Thanh Hóa, Sơn La... đã nêu rõ nhu cầu cấp thiết về hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ tài chính và cơ chế khuyến khích để nông dân có thể chuyển đổi sang sản xuất phát thải thấp. Những vướng mắc về cơ sở dữ liệu đo đếm phát thải, kết nối thị trường carbon và tín chỉ carbon nông nghiệp cũng được đưa ra thảo luận thẳng thắn.
Hội nghị tham vấn ngày 30/7/2025 là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Đề án, tạo sự đồng thuận giữa trung ương và địa phương, giữa cơ quan quản lý và người dân, doanh nghiệp. Với tinh thần trách nhiệm, hợp tác và hành động, hội nghị đã mở đường cho một chiến lược giảm phát thải thực chất, khả thi và phù hợp với điều kiện Việt Nam - nơi nông nghiệp không chỉ là sinh kế của hàng triệu hộ dân, mà còn là lĩnh vực chủ lực trong chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia.
Mô hình trồng lúa giảm phát thải khí nhà kính
Mục tiêu chính của Đề án
Mục tiêu tổng thể của Đề án là góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới phát triển nền nông nghiệp carbon thấp, hiện đại và bền vững. Đồng thời, đề án cũng nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trồng trọt trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Cụ thể, Đề án đặt ra một số mục tiêu chính sau: (1) Giảm ít nhất 20% phát thải khí nhà kính trong ngành trồng trọt đến năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương giảm khoảng 20 triệu tấn CO₂eq. Trong đó, tập trung vào ba nhóm phát thải chính gồm: phát thải từ sử dụng phân bón hoá học; phát thải từ đốt rơm rạ và dư lượng thực vật sau thu hoạch; phát thải khí mêtan từ ruộng lúa nước. (2) Nâng cao tỷ lệ diện tích canh tác ứng dụng các biện pháp sản xuất nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải (CSA-MAP), đạt từ 30–50% tổng diện tích gieo trồng cả nước vào năm 2030. Trong đó, ưu tiên các mô hình canh tác lúa cải tiến (như 1P5G, tưới ngập khô xen kẽ AWD…), canh tác theo hướng hữu cơ, tuần hoàn, và các mô hình ứng dụng công nghệ số trong quản lý canh tác. (3) Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về phát thải khí nhà kính trong trồng trọt phục vụ kiểm kê, giám sát, báo cáo (MRV) một cách chính xác, minh bạch và tích hợp với hệ thống quốc gia. Qua đó tạo nền tảng để huy động tài chính carbon, thu hút đầu tư xanh trong lĩnh vực nông nghiệp. (4) Xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ từ trung ương đến địa phương, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân trong triển khai các hoạt động giảm phát thải. Đồng thời, đẩy mạnh lồng ghép mục tiêu giảm phát thải vào các chương trình, dự án, quy hoạch ngành hàng và quy hoạch cấp tỉnh. (5) Tăng cường năng lực cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người sản xuất, đảm bảo mỗi địa phương trọng điểm có đủ đội ngũ hướng dẫn, hỗ trợ triển khai các mô hình canh tác giảm phát thải phù hợp với điều kiện thực tế.
Như vậy, các mục tiêu của Đề án không chỉ đơn thuần hướng tới giảm phát thải mà còn bao hàm cả chuyển đổi phương thức sản xuất, tái cấu trúc ngành trồng trọt và tạo nền tảng thể chế - kỹ thuật vững chắc để Việt Nam từng bước hiện thực hóa cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 theo Tuyên bố tại COP26.
ảnh minh hoạ
Các nhóm giải pháp được đưa ra thảo luận
Tại Hội nghị tham vấn, các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và đại diện địa phương đã tập trung góp ý và thảo luận sâu về các nhóm giải pháp trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất trồng trọt, phù hợp với điều kiện thực tiễn từng vùng miền. Các giải pháp được chia thành 5 nhóm chính:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Giảm phát thải không thể tách rời việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ canh tác hiện đại, tiết kiệm đầu vào và thân thiện môi trường. Các đại biểu nhấn mạnh cần mở rộng mô hình canh tác lúa cải tiến như SRI, tưới ngập - khô xen kẽ, quản lý dinh dưỡng hợp lý, ứng dụng công nghệ số trong giám sát mùa vụ và phát thải. Các kỹ thuật như ủ phân hữu cơ, sử dụng chế phẩm sinh học, vi tảo trong ruộng lúa cũng được đề cập như giải pháp tiềm năng vừa cải tạo đất vừa hấp thu khí nhà kính.
Thứ hai, nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách và thể chế hóa. Việc giảm phát thải trong nông nghiệp đòi hỏi một hành lang pháp lý đủ mạnh và rõ ràng. Các ý kiến cho rằng Đề án cần gắn với việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan (Luật Trồng trọt, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai...), đồng thời ban hành các cơ chế ưu đãi cho nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất xanh. Đặc biệt, việc xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) theo tiêu chuẩn quốc tế là điều kiện tiên quyết để tiếp cận thị trường tín chỉ carbon.
Thứ ba, nhóm giải pháp về tổ chức sản xuất và liên kết vùng, liên kết chuỗi. Việc hình thành các vùng trồng tập trung, có điều tiết sản lượng, gắn với thị trường và chuỗi giá trị bền vững sẽ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất đồng thời kiểm soát phát thải. Các mô hình tổ chức sản xuất theo hợp tác xã kiểu mới, tổ đội liên kết theo chuỗi giá trị được xem là hạt nhân của quá trình chuyển đổi xanh. Đề án cần thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP), kêu gọi sự vào cuộc của doanh nghiệp từ khâu giống, vật tư đầu vào đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tư, nhóm giải pháp về truyền thông, đào tạo và nâng cao năng lực. Một trong những rào cản lớn hiện nay là nhận thức và kỹ năng thực hành của nông dân còn hạn chế. Vì vậy, Đề án cần tích hợp các chương trình đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cụ thể, dễ hiểu và có thể triển khai được ngay tại cộng đồng. Truyền thông cần đi trước một bước, chú trọng đến việc nhân rộng mô hình điển hình và tạo hiệu ứng lan tỏa. Cùng với đó là nâng cao năng lực cho cán bộ kỹ thuật, hợp tác xã, cơ quan quản lý cấp huyện, xã để đảm bảo tính bền vững.
Thứ năm, nhóm giải pháp về huy động nguồn lực và tài chính khí hậu. Các đại biểu đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo nguồn lực thực hiện Đề án. Ngoài ngân sách nhà nước, cần thiết kế các cơ chế thu hút đầu tư tư nhân, nguồn vốn hỗ trợ từ các quỹ khí hậu toàn cầu, tổ chức phát triển quốc tế. Đồng thời, việc xây dựng hệ thống tín chỉ carbon trong nông nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ nhằm giảm phát thải và được hưởng lợi từ cơ chế carbon cũng được đánh giá là hướng đi chiến lược.
Góp ý từ địa phương và doanh nghiệp: Thẳng thắn, thiết thực, kiến tạo giải pháp sát thực tiễn
Tại Hội nghị tham vấn ngày 30/7/2025, các ý kiến từ đại diện chính quyền địa phương, Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, cùng một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến nông sản đã mang đến cái nhìn đa chiều và sát thực tế. Hầu hết các ý kiến đều đánh giá cao tính kịp thời của việc xây dựng Đề án trong bối cảnh Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050.
Kiến nghị về tính khả thi và lộ trình thực hiện: Các địa phương rất đồng tình với mục tiêu giảm phát thải từ trồng trọt, tuy nhiên nhấn mạnh việc cần có lộ trình cụ thể theo vùng sinh thái, theo năng lực tiếp cận kỹ thuật của từng địa phương. Không thể cào bằng các chỉ tiêu và công nghệ áp dụng giữa đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, đồng thời đề xuất Bộ cần ban hành bộ tiêu chí linh hoạt, cho phép địa phương tự điều chỉnh kế hoạch hành động phù hợp.
Doanh nghiệp đề xuất cơ chế khuyến khích đầu tư xanh: Hầu hết đều nhấn mạnh đến nhu cầu tạo dựng “thị trường carbon nội địa”, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào mô hình canh tác hữu cơ, tuần hoàn, sử dụng giống ít phát thải và phân bón sinh học. Nếu không có cơ chế tín chỉ carbon, giảm phát thải vẫn sẽ là khẩu hiệu, chưa thành động lực kinh tế đủ mạnh cho doanh nghiệp.
Cần gắn Đề án với lợi ích cụ thể của nông dân: Nhiều đại biểu nhấn mạnh rằng, nông dân là chủ thể chính của quá trình chuyển đổi, do đó cần có gói hỗ trợ rõ ràng và dễ tiếp cận. Đại diện tỉnh Sơn La nêu thực tế, nếu chỉ yêu cầu giảm sử dụng phân đạm hay tưới nước tiết kiệm mà không giúp người dân thấy rõ lợi ích kinh tế như tăng năng suất, tăng giá bán, hay được bao tiêu đầu ra thì việc triển khai sẽ gặp lực cản lớn. Các đại biểu đề xuất Bộ xây dựng bộ mô hình điểm ở cấp tỉnh, cấp xã để người dân được “mắt thấy tai nghe”.
Tăng cường vai trò của hệ thống khuyến nông, hợp tác xã: Một số ý kiến từ các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung kiến nghị đưa hệ thống khuyến nông trở thành một trong các nhóm giải pháp chủ lực. Thay vì chỉ dừng ở tập huấn lý thuyết, cần tổ chức huấn luyện thực địa và xây dựng đội ngũ “cán bộ xanh” đồng hành cùng nông dân trong các vụ sản xuất. Bên cạnh đó, vai trò liên kết của hợp tác xã trong sản xuất - tiêu thụ - giám sát giảm phát thải cũng được nhiều đại biểu đồng tình thúc đẩy.
Hội nghị tham vấn ngày 30/7/2025 không chỉ là một bước đi quan trọng trong quy trình xây dựng chính sách, mà còn là minh chứng rõ nét cho cách tiếp cận đổi mới từ thực tiễn, vì thực tiễn và lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Những ý kiến đóng góp đa chiều, thẳng thắn và giàu hàm lượng chuyên môn từ địa phương, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế đã góp phần làm rõ các mục tiêu, giải pháp và lộ trình triển khai Đề án. Từ đây, ngành trồng trọt có thêm nền tảng vững chắc để chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ giảm phát thải hiệu quả mà còn nâng cao giá trị nông sản Việt trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều quan trọng hơn cả là sự đồng thuận, thống nhất từ Trung ương đến địa phương - yếu tố quyết định để đưa Đề án đi vào thực tế, mang lại hiệu quả bền vững cho môi trường, người dân và nền kinh tế đất nước.
Diệp Anh