
Bài 4 (bài cuối): Kết nối đa bên - Hợp lực để hiện thực hóa mục tiêu trồng trọt giảm phát thải
09/08/2025TN&MTĐề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025-2030 là bước khởi đầu quan trọng. Nhưng để đi đến đích, hiện thực hóa các mục tiêu trung hòa carbon, thích ứng khí hậu, chuyển đổi mô hình sản xuất, điều cốt lõi là xây dựng được một cơ chế điều phối đa ngành, đa cấp, đa bên đủ mạnh, đủ linh hoạt, đủ đồng thuận. Sự chuyển đổi này không thể là cuộc độc hành của riêng Bộ Nông nghiệp và Môi trường hay một vài địa phương tiên phong.
Đề án chỉ là điểm khởi đầu
Tại hội nghị tham vấn ngày 30/7 vừa qua, không ít đại biểu nhấn mạnh rằng: đề án này không nên chỉ được nhìn như một tài liệu chính sách đơn lẻ, mà phải được định vị là một hệ quy chiếu hành động của toàn ngành nông nghiệp, là điểm khởi đầu của một tiến trình tái cấu trúc nền sản xuất trồng trọt theo hướng xanh và bền vững.
Không chỉ là những con số phát thải cần cắt giảm, đề án đang đặt ra một cách tiếp cận hoàn toàn mới: trồng trọt không còn được xem chỉ là hoạt động canh tác thuần túy, mà là một hệ thống kinh tế - môi trường - xã hội tích hợp, nơi mọi hành động, từ lựa chọn giống, canh tác, sử dụng vật tư nông nghiệp đến sơ chế, tiêu thụ đều ảnh hưởng đến dấu chân carbon và khả năng chống chịu khí hậu.
Đây là sự chuyển đổi căn bản, đòi hỏi sự đồng lòng và đồng hành của toàn hệ thống chính trị, chính quyền các cấp, cộng đồng doanh nghiệp, nông dân và các tổ chức xã hội. Và để làm được điều đó, phải có một cơ chế kết nối đủ chặt, điều phối đủ linh hoạt và huy động được đủ nguồn lực.
Sử dụng máy cuốn rơm trong mô hình canh tác lúa giảm phát thải
Chuyển từ ý chí chính sách sang hành động thực tiễn
Một thực tế đã được nêu ra tại hội nghị là: Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam có rất nhiều chiến lược, chương trình về tăng trưởng xanh, thích ứng biến đổi khí hậu, chuyển đổi nông nghiệp bền vững… nhưng kết quả chưa tương xứng. Lý do chính là khoảng cách rất lớn giữa ý chí chính sách và hành động thực tiễn.
Trong lĩnh vực trồng trọt, rất nhiều mô hình giảm phát thải đã được xây dựng: như “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, canh tác hữu cơ, tuần hoàn nông nghiệp, trồng lúa khô gián đoạn... Tuy nhiên, hầu hết vẫn nằm ở quy mô thí điểm, chưa được nhân rộng vì thiếu cơ chế lan tỏa, thiếu lực đẩy thị trường, thiếu sự cam kết chính sách từ cấp tỉnh đến xã.
Chuyển từ chính sách sang hành động cần một quy trình đồng bộ, trong đó có 3 yếu tố sống còn: (1) Thể chế linh hoạt: để địa phương có thể chủ động vận dụng, không rập khuôn. (2) Nguồn lực bảo đảm: cả về tài chính, kỹ thuật, nhân lực và thông tin. (3) Giám sát - phản hồi - điều chỉnh: theo cơ chế “vòng kín” để chính sách không bị trì trệ hay sai hướng.
Nếu không có cơ chế phối hợp liên ngành đủ mạnh, những nỗ lực đơn lẻ sẽ bị phân tán, thậm chí xung đột nhau. Chính vì vậy, điều phối liên ngành là một điểm nghẽn cần tháo gỡ sớm.
Điều phối liên ngành - Gỡ nút thắt phối hợp đa bên
Hiện nay, các yếu tố liên quan đến sản xuất trồng trọt phát thải thấp nằm rải rác trong nhiều lĩnh vực: giống, phân bón, định giá và thương mại carbon (Bộ NN&MT), tín dụng và bảo hiểm, quy hoạch và hạ tầng (Bộ Tài chính), phát triển khoa học công nghệ (Bộ KH&CN), thị trường và tiêu chuẩn (Bộ Công Thương)... Tuy nhiên, chưa có một cơ chế phối hợp liên ngành chính thức nào để các bộ, ngành này cùng ngồi lại và hành động theo một mục tiêu chung về phát thải trong nông nghiệp.
Tại hội nghị, nhiều ý kiến kiến nghị thành lập Ban điều phối liên ngành về trồng trọt giảm phát thải, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ hoặc Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực. Ban này sẽ có chức năng: (1) Điều phối các nguồn lực liên ngành. (2) Phối hợp xây dựng cơ chế tài chính xanh cho nông nghiệp. (3) Lồng ghép mục tiêu phát thải thấp vào kế hoạch trung hạn của các bộ, ngành… (4) Định kỳ giám sát, đánh giá kết quả và điều chỉnh chính sách
Mô hình này từng được đề xuất trong các chương trình lớn như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, hay Chương trình xây dựng nông thôn mới và đã cho thấy hiệu quả trong việc tạo đồng thuận và đẩy nhanh thực thi. Nếu áp dụng cho Đề án trồng trọt giảm phát thải, đây sẽ là một đột phá lớn về mặt thể chế.
ảnh minh hoạ
Vai trò của địa phương, doanh nghiệp và nông dân
Không chỉ dừng ở cấp trung ương, chuyển đổi trồng trọt xanh, sạch, phát thải thấp còn đòi hỏi sự chủ động và sáng tạo từ cấp tỉnh, cấp xã và đặc biệt là cộng đồng nông dân, doanh nghiệp.
Địa phương: Không chờ đợi hướng dẫn - cần “đi trước một bước”
Từ thực tế triển khai mô hình tại các địa phương có tên cũ trước đây như An Giang, Tiền Giang, Thái Bình, Gia Lai… có thể thấy, nơi nào chính quyền địa phương thực sự vào cuộc, từ quy hoạch sản xuất, xây dựng chuỗi liên kết, khuyến khích doanh nghiệp đồng hành thì nơi đó các mô hình giảm phát thải phát triển mạnh hơn, hiệu quả hơn.
Thực tế đã cho thấy, một số địa phương đã không chờ Chính phủ ‘ban hành chính sách xong mới làm’, mà chủ động bố trí ngân sách tỉnh hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu sầu riêng hữu cơ và khuyến nông tập huấn cho hộ dân. Cái thiếu không phải là văn bản, mà là dám làm và biết kết nối.
Các địa phương cần mạnh dạn thí điểm, tổng kết và đề xuất “đặt hàng chính sách” để trung ương hoàn thiện khuôn khổ thể chế phù hợp hơn với thực tiễn.
Doanh nghiệp: Mắt xích quan trọng của thị trường carbon và tín dụng xanh
Một điểm nổi bật tại hội nghị tham vấn là sự tham gia tích cực của doanh nghiệp trong chuỗi trồng trọt. Nhiều đơn vị như PAN Group, VinaCafe… đã chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng vùng nguyên liệu phát thải thấp, đầu tư truy xuất nguồn gốc, tính toán tín chỉ carbon và tham gia thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn về pháp lý, tiêu chuẩn xác minh carbon, thiếu chính sách ưu đãi đầu tư. Nhiều doanh nghiệp khẳng định sẵn sàng đầu tư, nhưng cần cơ chế rõ ràng để chuyển tín chỉ carbon thành lợi ích cụ thể, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn xanh.
Nông dân: Từ đối tượng thụ hưởng sang đối tác đồng kiến tạo
Người nông dân chính là “tác nhân phát thải”, nhưng cũng là “chủ thể hành động”. Muốn chuyển đổi thành công, cần thay đổi vai trò của nông dân từ người thụ hưởng chính sách sang người đồng kiến tạo giải pháp, có tiếng nói trong quy hoạch, xây dựng mô hình, giám sát và chia sẻ lợi ích.
Chính sách cần đặt nông dân vào trung tâm hệ sinh thái canh tác phát thải thấp - có thể thông qua hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ nhóm nông dân để giúp họ tiếp cận dễ hơn với tài chính, công nghệ, thông tin thị trường.
Xây dựng cơ chế vận hành bền vững cho Đề án
Bốn bài học lớn có thể rút ra từ chuỗi hội nghị tham vấn về Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025-2030: (1) Không thể hành động đơn lẻ. Phải có một cơ chế điều phối liên ngành, liên cấp chặt chẽ. (2) Không thể áp đặt từ trên xuống. Phải trao quyền cho địa phương, nông dân, doanh nghiệp chủ động kiến tạo. (3) Không thể trông chờ ngân sách nhà nước. Phải huy động nguồn lực đa dạng: vốn tư nhân, ODA, thị trường carbon. (4) Không thể để chính sách đứng ngoài thị trường. Phải gắn chuyển đổi với tiêu chuẩn, truy xuất nguồn gốc, lợi ích cụ thể. Chỉ khi nào đề án được vận hành như một hệ sinh thái chính sách - tài chính - thị trường - con người đồng bộ, thì khi đó các mô hình trồng trọt giảm phát thải mới có thể nở rộ và nhân rộng bền vững.
Đề án là bước khởi đầu. Nhưng cách chúng ta thực hiện đề án với cơ chế nào, sự tham gia của ai và mức độ quyết liệt ra sao mới là yếu tố quyết định sự thành công.
Hồng Minh