Kiểm định phương tiện đo đạc và bản đồ

30/07/2024

TN&MTViệc kiểm định phương tiện đo đạc và bản đồ là một hoạt động mang tính nguyên tắc không thể thiếu ở mọi quốc gia để đảm bảo độ chính xác hoạt động của phương tiện đo. Với vai trò đó, trong lĩnh vực đo đạc và bản đồ, các quốc gia đều hướng tới việc xây dựng cho mình một hệ thống trong đó bao gồm các cơ quan quản lý, các văn bản pháp lý, hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo cho việc quản lý, thực thi việc kiểm định phương tiện đo đạc, đảm bảo tính thống nhất sản phẩm đo đạc và bản đồ quốc gia cũng như trao đổi thông tin đo đạc và bản đồ quốc tế.

Kiểm định phương tiện đo đạc và bản đồ

Thực trạng công tác kiểm định phương tiện đo đạc và bản đồ

Đo đạc và bản đồ là lĩnh vực kỹ thuật đặc biệt mà sản phẩm của nó chủ yếu là các thông tin, dữ liệu định lượng có độ chính xác cao như tọa độ, độ cao, bản đồ, cơ sở dữ liệu,… Để đảm bảo cho tính chính xác, tính thống nhất của sản phẩm ĐĐ&BĐ, trước hết các sản phẩm này phải được sản xuất bằng những phương tiện đo đạc chuẩn. Để có được phương tiện ĐĐ&BĐ hoạt động đạt được độ chính xác theo tiêu chuẩn trước hết cần phải đảm bảo rằng phương tiện đó được làm ra từ một nhà sản xuất thiết bị tiêu chuẩn và đang trong thời hạn kiểm định.

Hiện nay công nghệ ĐĐ&BĐ trên thế giới và Việt Nam ngày một phát triển mạnh mẽ. Các phương tiện, thiết bị đo đạc cơ bản (đo góc, đo cạnh, đo cao, đo trọng lực) truyền thống trước đây đã trở nên lạc hậu, đã được thay thế bằng các phương tiện, thiết bị công nghệ số ngày càng có độ chính xác cao và hoàn thiện hơn từ các hãng nổi tiếng như Trimble, Ashtech,Sokkia, Leica,… Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, phương tiện, thiết bị ĐĐ&BĐ dạng số, hiện đại cũng không thể bỏ qua được công tác kiểm định, kiểm nghiệm, hiệu chỉnh các chỉ tiêu cơ bản, truyền thống của phương tiện đo. Vẫn còn đó sai số 2C, MO ở máy đo góc điện tử, sai số góc “i”, sai số mã vạch mia thủy chuẩn điện tử, các chức năng, độ chính xác đo dài trong máy toàn đạc điện tử không phải là bất biến nếu không được kiểm định, công nghệ đo GNSS không phải tuyệt đối chính xác mà còn phụ thuộc vào loại phương tiện, thiết bị, vào tuổi đời, hiện trạng máy thu tín hiệu vệ tinh. Nói tóm lại, nhiệm vụ kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ vẫn còn nguyên vai trò truyền thống của nó dù đến nay thế giới đang ở giai đoạn công nghệ 4.0.

Điều này thể hiện ở chỗ, nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như: Mỹ, Nga, các quốc gia châu Âu, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ sở kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ hoàn chỉnh, đảm bảo tính chính xác, tính đồng bộ, tính đồng nhất về chất lượng phương tiện ĐĐ&BĐ cho mỗi quốc gia và trong trao đổi quốc tế. Hiệp hội tiêu chuẩn quốc tế (ISO) với loạt các tiêu chuẩn ISO 17123 đã xây dựng các tiêu chuẩn về quy trình để kiểm tra phương tiện, thiết bị khảo sát ĐĐ&BĐ, theo đó, tùy theo điều kiện, trình độ về kỹ thuật, phương pháp quản lý mỗi quốc gia có thể áp dụng các tiêu chuẩn ISO17123 hoặc xây dựng những quy định riêng về công tác kiểm định phương tiện, thiết bị ĐĐ&BĐ đảm bảo chất lượng ổn định trong suốt quá trình sản xuất. 

Luật ĐĐ&BĐ số 27/2018/QH14 khẳng định: “Phương tiện đo được sử dụng trong hoạt động ĐĐ&BĐ phải được kiểm định, hiệu chuẩn; Bộ TN&MT đề xuất danh mục phương tiện đo phải kiểm định trong hoạt động ĐĐ&BĐ”. Vấn đề kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ cũng đã được đề cập và quy định trong Luật Đo lường số 04/2011/QH13 và các thông tư hướng dẫn thi hành số 23/2013/TT-BKHCN và Thông tư số: 07/2019/TT-BKHCN trong đó, quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện đo là “Bảo đảm các điều kiện bảo quản, sử dụng phương tiện đo theo quy định của nhà sản xuất, yêu cầu kỹ thuật đo lường của cơ quan nhà nước về đo lường có thẩm quyền; duy trì đặc tính kỹ thuật đo lường của phương tiện đo trong suốt quá trình sử dụng và giữa hai kỳ kiểm định”. 

Thực tế công tác kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ của Việt Nam chưa triển khai đúng vai trò từ nhiều năm nay do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan có thể chỉ ra đó là các bãi chuẩn kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ của ngành ĐĐ&BĐ được xây dựng đã lâu, bị hư hại do sự phát triển KT-XH nhưng không được khôi phục, từ đó, tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện ĐĐ&BĐ (chủ yếu là máy toàn đạc điện tử, máy thu tín hiệu vệ tinh GNSS) không có nơi để thực hiện công tác kiểm định. Cục ĐĐ, BĐ và Thông tin địa lý Việt Nam đã có đề xuất dự án khôi phục, xây dựng mới cơ sở kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ nhưng vì nhiều lý do, khó khăn khác nhau nên chưa được triển khai từ nhiều năm qua. Hiện tại, Cục đã triển khai đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng quy định về công tác kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo trong lĩnh vực ĐĐ&BĐ” với mục đích hoàn thiện hệ thống kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân chủ quan đó là sự không đồng bộ về QLNN về kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ, thể hiện ở chỗ quy định bắt buộc về kiểm định thì đã có nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương pháp, cách thức kiểm định. Trong khi đó, các cơ sở hoạt động về kiểm định phương tiện đo đạc chưa đầu tư nhiều về nghiên cứu xây dựng các quy trình nội bộ một cách bài bản dẫn tới chất lượng công tác kiểm định chưa đáp ứng được yêu cầu theo Luật định.

Dù thực tế vấn đề kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ ở Việt Nam còn có những khó khăn, tồn tại như nêu trên nhưng trong thời gian tới, công tác kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ sẽ phải thực hiện đúng, đồng bộ theo các văn bản luật pháp đã có trong Luật Đo lường năm 2011, Luật ĐĐ&BĐ năm 2018 cũng như các văn bản dưới luật để công tác kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ đi đúng theo hướng tuân thủ pháp luật.

Các quy định pháp luật cơ bản về kiểm định phương tiện đo đạc ở Việt Nam

Luật Đo lường năm 2011 và các thông tư số 23, 07 của Bộ KH&CN đã quy định rõ về kiểm định phương tiện đo lường nói chung, với những nội dung quan trọng liên quan đến ĐĐ&BĐ như sau:

Phương tiện đo nhóm 2 phải được kiểm định ban đầu trước khi đưa vào sử dụng, kiểm định định kỳ trong quá trình sử dụng, kiểm định sau sửa chữa. Phương tiện đo nhóm 2 phải được kiểm soát về đo lường bằng một hoặc một số biện pháp: Phê duyệt mẫu khi sản xuất, nhập khẩu; kiểm định ban đầu trước khi đưa vào sử dụng; kiểm định định kỳ trong quá trình sử dụng; kiểm định sau sửa chữa.

 Việc kiểm định phương tiện đo do tổ chức kiểm định thực hiện để đánh giá, xác nhận đặc tính kỹ thuật đo lường của phương tiện đo theo yêu cầu kỹ thuật đo lường; tổ chức kiểm định là tổ chức đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan, được cơ quan nhà nước về đo lường có thẩm quyền xem xét, đưa vào danh sách để tổ chức, cá nhân lựa chọn sử dụng dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường.

Các quy định này của Luật Đo lường mang tính bao trùm cho tất cả các phương tiện đo ở Việt Nam trong đó có các phương tiện ĐĐ&BĐ. Luật ĐĐ&BĐ năm 2018 quy định: “Phương tiện đo được sử dụng trong hoạt động ĐĐ&BĐ phải được kiểm định, hiệu chuẩn; Bộ TN&MT đề xuất danh mục phương tiện đo phải kiểm định trong hoạt động ĐĐ&BĐ”. Từ các quy định này có thể thấy được các nội dung mang tính quy định pháp luật đối với phương tiện ĐĐ&BĐ đó là: Phương tiện ĐĐ&BĐ phải được kiểm định ban đầu (xuất xưởng, nhập khẩu) trước khi đưa vào sử dụng, kiểm định định kỳ trong quá trình sử dụng, kiểm định sau sửa chữa; tổ chức kiểm định là tổ chức theo quy định ở Luật này là cơ quan, đơn vị được cơ quan nhà nước về đo lường có thẩm quyền xem xét, đưa vào danh sách để tổ chức, cá nhân lựa chọn sử dụng dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường. Điều này cho thấy, khái niệm “Tổ chức kiểm định” khá rộng, không chỉ cơ quan QLNN về ĐĐ&BĐ mà còn là tổ chức khác đáp ứng yêu cầu của cơ quan nhà nước về đo lường có thẩm quyền.

Với tác động của Luật ĐĐ&BĐ, Luật Đo lường và các văn bản dưới Luật cùng với sự quan tâm của các cơ quan QLNN về ĐĐ&BĐ, công tác kiểm định phương tiện ĐĐ&BĐ sẽ được nâng tầm đúng với vai trò, vị trí vốn có, góp phần đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng các sản phẩm ĐĐ&BĐ - một nền tảng cơ bản để xây dựng, đưa nền kinh tế số của Việt Nam phát triển, hội nhập với các quốc gia trong khu vực và thế giới.

BÙI ĐĂNG QUANG
Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2024

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Việt Nam - Australia hợp tác phát triển nông nghiệp xanh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Nông nghiệp

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Giò chả Ước Lễ Xuân Hương, sản phẩm OCOP 4 sao - tinh hoa hương vị Việt giữ trọn hồn dân tộc

Đắk Lắk: Nông dân được mùa “vải thiều” nhờ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và ứng dụng khoa học kỹ thuật

Định hình cơ quan Nông nghiệp và Môi trường cấp xã trong giai đoạn mới

Tài nguyên

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Quảng Bình - Quảng Trị: Cơ hội vàng cho kinh tế biển bứt phá

Khai thác đúng sản lượng cấp phép, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Cộng đồng xanh Hà Nội: Khi những người trẻ chọn sống tử tế với môi trường

Ngô Quyền (Hà Đông): Đường thành bãi lầy sau mưa, dân khốn khổ vì bụi bẩn và ô nhiễm

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

3 huyện, thị xã về đích nông thôn mới

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt

Tiêu dùng xanh trong đô thị: Thay đổi thói quen hướng tới phát triển bền vững