Tạo cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ phát triển thị trường tín chỉ các-bon

22/03/2025

TN&MTNgày 24/1/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 232/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam. Đề án được phê duyệt góp phần thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đã cam kết, tạo dòng tài chính mới cho hoạt động cắt giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam ở trong nước và trên thị trường thế giới, hướng tới đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Tạo cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ phát triển thị trường tín chỉ các-bon

Cơ hội phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam

Tại Việt Nam, việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) đã được triển khai qua các cơ chế tín chỉ các-bon như Cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế tín chỉ chung (JCM), và các cơ chế tín chỉ tự nguyện khác. Những nỗ lực này không chỉ góp phần vào cuộc chiến toàn cầu chống biến đổi khí hậu mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận các cơ hội tài chính từ thị trường các-bon quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã đăng ký 258 dự án theo Cơ chế phát triển sạch (CDM), xếp thứ tư trên thế giới về số lượng dự án. Các dự án đã đạt tổng lượng giảm phát thải khoảng 140 triệu tấn CO2 tương đương. Các doanh nghiệp tham gia đã bán hơn 4 triệu tín chỉ các-bon, tạo ra nguồn thu tài chính quan trọng giúp mở rộng sản xuất, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với Cơ chế tín chỉ chung (JCM), được triển khai từ năm 2013 trong chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản, hiện đã có 14 dự án được đăng ký với tiềm năng giảm phát thải khoảng 15.996 tấn CO2 mỗi năm. Trong số đó, 8 dự án đã đi vào hoạt động và được cấp tổng cộng 4.414 tín chỉ các-bon. Bên cạnh đó, nhiều dự án tự nguyện tại Việt Nam cũng đã được đăng ký theo các tiêu chuẩn quốc tế như Tiêu chuẩn Vàng (GS) và Tiêu chuẩn các-bon được thẩm tra (VCS). Cụ thể, 20 dự án đã được đăng ký theo tiêu chuẩn GS, với tổng số tín chỉ đạt hơn 3,27 triệu và 17 dự án theo tiêu chuẩn VCS với tổng lượng tín chỉ hơn 600.000. Tuy nhiên, thị trường các-bon tại Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động dưới dạng tự nguyện và thiếu sự hỗ trợ về pháp lý, cơ chế bù trừ và giao dịch trong nước.

Theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, thị trường tín chỉ các-bon chỉ có hiệu quả, lợi ích thực sự nếu được áp dụng đồng bộ, rộng khắp và công bằng trên quy mô toàn cầu, nhưng đến nay mới chỉ có một số quốc gia, khu vực bắt đầu áp dụng những công cụ kinh tế để quản lý lượng phát thải khí các-bon đối với một số sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, chúng ta phải chủ động hơn để phát triển thị trường tín chỉ các-bon, bảo đảm ứng xử phù hợp với các quốc gia, khu vực đã áp dụng công cụ kinh tế, tài chính để quản lý lượng phát thải khí các-bon, tránh tổn thất, thiệt thòi cho doanh nghiệp, bảo vệ được lợi ích quốc gia.

Việc phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam là bước cụ thể hóa để chuẩn bị cho những chính sách lớn trên phạm vi toàn cầu về giảm phát thải KNK, phân bổ hạn ngạch phát thải, trao đổi tín chỉ các-bon, tạo nguồn lực tài chính xanh để doanh nghiệp đổi mới công nghệ,... Đề án góp phần thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới phát triển nền kinh tế các-bon thấp và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đề án cần cập nhật những chính sách, thỏa thuận toàn cầu, cũng như các chiến lược, quy hoạch ngành, lĩnh vực đã được ban hành với định hướng ứng phó biến đổi khi hậu, chuyển đổi năng lượng công bằng, giảm phát thải KNK,… Ngoài ra, với tiềm năng phát triển các dự án năng lượng tái tạo và giảm phát thải, Việt Nam có thể trở thành nguồn cung cấp tín chỉ các-bon cho các nước phát triển, tạo ra nguồn thu ngoại tệ mới và việc làm. Chính phủ đã chủ động triển khai các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia, bao gồm ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính. Sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế cũng giúp Việt Nam xây dựng và vận hành thị trường các-bon hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia. Bên cạnh đó, thị trường các-bon còn thúc đẩy phát triển công nghệ xanh, giúp Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên sang kinh tế dựa vào công nghệ và đổi mới. Ngoài ra, phát triển thị trường các-bon còn mở ra cơ hội hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, giúp Việt Nam tiếp cận các nguồn tài trợ và học hỏi từ kinh nghiệm toàn cầu. Để khai thác tối đa tiềm năng này, Việt Nam cần tiến hành thêm các nghiên cứu chuyên sâu, bảo đảm cơ hội phát triển thị trường các-bon bền vững và hội nhập sâu hơn vào kinh tế toàn cầu.

Tạo cơ chế, chính sách phù hợp cho phát triển thị trường tín chỉ các-bon

Việt Nam đã cam kết giảm phát thải các-bon về mức bằng “0” vào năm 2050 và đang tiến hành xây dựng thị trường tín chỉ các-bon để đạt được mục tiêu này. Theo kế hoạch, việc thí điểm thị trường tín chỉ các-bon sẽ bắt đầu từ năm 2025, việc hoàn thiện khung pháp lý được dự kiến vào năm 2027 và sàn giao dịch tín chỉ các-bon sẽ chính thức đi vào hoạt động từ năm 2028. Để đảm bảo thực hiện hiệu quả Đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam, chúng ta cần ưu tiên triển khai đồng bộ một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài, cụ thể như: 

Thứ nhất, nâng cao hoạt động tuyên truyền và nhận thức về thị trường tín chỉ các-bon, giúp các doanh nghiệp, tổ chức và cả xã hội có cơ hội tiếp cận thông tin và phương thức giao dịch, từ đó chủ động sẵn sàng tham gia vào thị trường. Chúng ta cần xây dựng bộ công cụ đánh giá các-bon phù hợp với các cơ chế định giá các-bon quốc tế; phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu về thị trường tín chỉ các-bon; thiết lập định mức phát thải các-bon cho từng đơn vị, loại hình sản phẩm trong các hoạt động kinh doanh và sản xuất.

Thứ hai, từng bước hoàn thiện mô hình thị trường tín chỉ các-bon, tập trung vào việc phát triển sàn giao dịch, cơ chế vận hành và quản lý của nhà nước đối với các sàn giao dịch. Xây dựng hệ thống đăng ký tầm quốc gia để quản lý lượng tín chỉ các-bon, kết nối với các hệ thống và tổ chức tham gia thị trường trên toàn cầu. Các chủ thể tham gia thị trường sẽ đăng ký tài khoản giao dịch và cung cấp thông tin về hàng hóa cần giao dịch.

Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo và chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ cho thị trường tín chỉ các-bon, bao gồm: Nghiên cứu và phân tích nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực tín chỉ các-bon, xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo phù hợp, bao gồm cả khóa học ngắn hạn và các chương trình đào tạo chính thức. Cần tập trung vào việc cung cấp kiến thức về giảm các-bon, quản lý dự án tín chỉ các-bon và các kỹ năng khác. Bên cạnh đó, Việt Nam cần mở rộng hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm và nhận hỗ trợ tài chính, công nghệ. 

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế, tham gia các cơ chế như CDM và JCM đã mang lại thành công lớn và việc duy trì, mở rộng các cơ chế này sẽ tiếp tục tạo ra nguồn tín chỉ có giá trị và thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Đồng thời, Việt Nam nên tham gia sâu hơn vào thị trường các-bon toàn cầu và kết hợp với các điều ước quốc tế như Thỏa thuận Paris. 

Thứ năm, thực hiện kết hợp các giải pháp phát triển thị trường các-bon một cách đồng bộ và có hệ thống, nhằm tạo nền tảng bền vững cho tăng trưởng xanh và đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. 

Việc phát triển thị trường tín chỉ các-bon tại Việt Nam không chỉ là một giải pháp quan trọng để thực hiện cam kết giảm phát thải khí nhà kính mà còn mở ra những cơ hội kinh tế lớn, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài chính xanh và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để thị trường này vận hành hiệu quả, cần có sự đồng bộ trong cơ chế chính sách, khung pháp lý, cũng như sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp và tổ chức liên quan.

MINH TRÍ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 3 năm 2025

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Phát động Cuộc thi viết “Vượt lên số phận” lần thứ VIII

Long An: Top 2 địa phương cải cách mạnh nhất theo PCI 2005 - 2024

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to

Thời tiết ngày 11/5: Mưa to trải dài khắp đất nước, nhiều nơi mưa trên 60mm