
Bài 3: Chính sách là bệ phóng - Cần cơ chế đủ mạnh cho sản xuất trồng trọt giảm phát thải
09/08/2025TN&MTKhông thể chuyển đổi mô hình sản xuất trồng trọt theo hướng giảm phát thải nếu thiếu chính sách đồng bộ, thiếu nguồn lực bền vững và thiếu các cơ chế đủ mạnh để tháo gỡ điểm nghẽn từ cơ sở. Bài toán chính sách - tài chính - thị trường cần được định hình lại như một phần không thể tách rời của Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025-2030.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung (giữa) tham quan các công nghệ giúp giảm phát thải trong trồng trọt.
Ảnh: Nguyên Huân
Định hướng sản xuất nông nghiệp giảm phát thải đang mở ra cơ hội tạo lợi thế cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu. Không chỉ giúp cải thiện thu nhập cho nông dân, mô hình này còn là chiến lược lâu dài để xây dựng thương hiệu quốc gia về nông sản xanh, bền vững, hài hòa với thiên nhiên và thích ứng biến đổi khí hậu.
Chính sách là chiếc chìa khóa cho chuyển đổi xanh
Trồng trọt hiện chiếm tới gần 50% tổng lượng phát thải khí nhà kính của ngành nông nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, đây lại là lĩnh vực gắn với sinh kế của hàng triệu nông hộ, hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ, những đối tượng dễ bị tổn thương nhất khi đối mặt với biến đổi khí hậu, thị trường biến động hay rủi ro sản xuất. Chuyển đổi mô hình trồng trọt theo hướng giảm phát thải là con đường tất yếu, song cũng là hành trình gian nan nếu không có chính sách hỗ trợ đúng và trúng.
Không phải ngẫu nhiên, tại hội nghị tham vấn Đề án tổ chức vào tháng 7/2025, rất nhiều đại biểu từ các địa phương, viện nghiên cứu, tổ chức quốc tế đều nhấn mạnh: muốn thực hiện thành công mục tiêu giảm phát thải trong trồng trọt, cần xây dựng hệ sinh thái chính sách đồng bộ từ tài chính, tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp đến cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ xanh, chuyển giao kỹ thuật, phát triển thị trường carbon trong nước.
Sự chuyển mình của trồng trọt không thể đặt hết lên vai nông dân. Chính sách phải là “bệ đỡ” để nông dân không đơn độc và doanh nghiệp không bỏ cuộc giữa chừng.
Khoảng trống trong hệ thống hỗ trợ sản xuất nông nghiệp xanh
Một trong những rào cản lớn nhất hiện nay là thiếu cơ chế tài chính chuyên biệt và khả thi cho sản xuất nông nghiệp giảm phát thải. Dù chủ trương, chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và trung hòa carbon đã được ban hành, nhưng chưa có một quỹ riêng hay gói hỗ trợ tài chính đủ mạnh nào dành cho lĩnh vực trồng trọt giảm phát thải.
Bên cạnh đó, các chính sách tín dụng xanh của hệ thống ngân hàng mới chỉ dừng ở quy mô nhỏ, thiếu tiêu chí rõ ràng và chưa thật sự tiếp cận được đến nông hộ, hợp tác xã - nhóm đối tượng chính trong chuyển đổi mô hình canh tác. Nhiều địa phương còn gặp khó khi xây dựng mô hình trình diễn, vì thiếu nguồn vốn đối ứng và chưa được hướng dẫn lồng ghép vào các chương trình mục tiêu quốc gia một cách linh hoạt.
Thị trường carbon nội địa cũng mới chỉ ở giai đoạn khởi động, với khung pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện. Điều này khiến các doanh nghiệp sản xuất lúa gạo, cà phê, hồ tiêu,… những mặt hàng có tiềm năng cao trong tín chỉ carbon - chưa thể đầu tư bài bản để hưởng lợi từ việc cắt giảm phát thải.
Ngay cả hệ thống chính sách hiện hành về hỗ trợ nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ cũng chưa định danh rõ “nông nghiệp giảm phát thải” là một lĩnh vực ưu tiên riêng. Điều này dẫn đến tình trạng các đề xuất dự án giảm phát thải thường khó “chen chân” vào cơ chế sẵn có, hoặc không đạt tiêu chí để được cấp vốn, dù mục tiêu rất cấp thiết.
Từ hội nghị tham vấn: Những kiến nghị cụ thể
Tại hội nghị tham vấn Đề án, nhiều kiến nghị đã được đưa ra từ các địa phương, nhà khoa học và tổ chức quốc tế nhằm định hình lại hệ thống chính sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù sản xuất trồng trọt.
Hình thành quỹ tài chính khí hậu ngành nông nghiệp. Theo Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, cần nghiên cứu thành lập một quỹ tài chính khí hậu riêng cho ngành nông nghiệp, trong đó trồng trọt là trọng tâm. Quỹ này có thể huy động từ nhiều nguồn: ngân sách nhà nước, ODA, đầu tư tư nhân và tín chỉ carbon quốc tế, để hỗ trợ cho các hoạt động như: xây dựng mô hình giảm phát thải, đào tạo nông dân, hỗ trợ chuyển đổi công nghệ, nghiên cứu ứng dụng khoa học xanh.
Tạo khoản vay tín dụng xanh với tiêu chí đơn giản, dễ tiếp cận. Nhiều địa phương đề xuất cần các chính sách tín dụng xanh có lãi suất ưu đãi rõ ràng, thời gian vay dài và quy trình đơn giản hơn. Hiện nay, nông dân muốn vay vốn để chuyển sang canh tác theo mô hình sinh thái, tuần hoàn vẫn rất khó khăn vì không có tài sản thế chấp. Do đó, đề nghị Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp xây dựng chính sách tín dụng riêng cho sản xuất nông nghiệp giảm phát thải, thí điểm ở một số tỉnh trọng điểm để rút kinh nghiệm nhân rộng.
Bổ sung cơ chế mua bán tín chỉ carbon trong lĩnh vực nông nghiệp. Các chuyên gia từ FAO và UNDP nhấn mạnh, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện hạ tầng cho thị trường carbon nội địa, đặc biệt trong các chuỗi trồng trọt có tiềm năng cao như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, rau màu.
Việc xác lập cơ chế định giá tín chỉ carbon, cấp mã số cho mô hình giảm phát thải, kết nối giữa nông dân - doanh nghiệp - đơn vị trung gian là những bước quan trọng để tạo động lực tài chính mới cho người sản xuất. Nếu được làm đúng, nông dân không chỉ bán nông sản mà còn bán được “quyền không phát thải” - tức tín chỉ carbon.
Định hình lại chính sách - Tạo nền tảng cho hành động
Trong khuôn khổ Đề án, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang đề xuất nhiều nhóm chính sách đột phá, được tổng hợp từ quá trình khảo sát, lấy ý kiến rộng rãi tại các hội nghị, tọa đàm với địa phương và tổ chức quốc tế.
Tích hợp chính sách giảm phát thải vào các chương trình mục tiêu. Trước hết, giảm phát thải trong trồng trọt cần được định danh là một mục tiêu xuyên suốt trong tất cả chương trình lớn, từ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đến các chính sách hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng phó biến đổi khí hậu. Các tiêu chí về “giảm phát thải”, “canh tác sinh thái”, “tuần hoàn hữu cơ” cần được lồng ghép thành thước đo trong xét duyệt, ưu tiên nguồn lực và đánh giá hiệu quả đầu tư công.
Ưu đãi đầu tư và phát triển công nghệ xanh trong nông nghiệp. Một trong những định hướng chính sách mới là mở rộng ưu đãi đầu tư vào công nghệ trồng trọt ít phát thải như: hệ thống tưới tiết kiệm, công nghệ sấy sinh khối, phân bón sinh học, cảm biến theo dõi độ ẩm - dinh dưỡng - khí thải đồng ruộng…
Doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất vật tư đầu vào xanh, trung tâm đào tạo kỹ thuật, hoặc mô hình dịch vụ nông nghiệp số cũng cần được hưởng các ưu đãi về thuế, đất đai, vay vốn như các ngành công nghệ cao.
Cơ chế thí điểm thị trường carbon trong nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang làm việc với Bộ Tài chính để xây dựng khung chính sách thí điểm thị trường carbon trong nông nghiệp, trước mắt tập trung vào lĩnh vực lúa gạo - chiếm hơn 45% tổng phát thải ngành trồng trọt.
Các mô hình trồng lúa giảm phát thải tại Đồng bằng sông Cửu Long như “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, canh tác lúa thông minh khí hậu sẽ được đưa vào cơ chế thử nghiệm xác minh tín chỉ carbon, cấp chứng chỉ và giao dịch với thị trường trong nước hoặc thông qua các sàn môi giới quốc tế.
Hành trình giảm phát thải trong trồng trọt là một sự chuyển dịch có hệ thống
Hành trình giảm phát thải trong trồng trọt là một cuộc chuyển đổi sâu rộng, không thể chỉ dựa vào nhận thức hay các mô hình thí điểm nhỏ lẻ. Đó là một sự chuyển dịch có hệ thống về tư duy, công nghệ và cả cơ chế chính sách.
Nếu thiếu một nền tảng chính sách đủ mạnh, hành động ở cấp cơ sở sẽ mãi chỉ là “tự phát”, thiếu bền vững và không tạo được đột phá. Nếu không có tài chính xanh, thị trường carbon, cơ chế khuyến khích phù hợp, thì mục tiêu giảm 30% phát thải khí nhà kính ngành trồng trọt vào năm 2030 sẽ vẫn chỉ nằm trên giấy.
Chính sách là bệ phóng. Nhưng để bệ phóng ấy thật sự đưa ngành trồng trọt vươn cao theo hướng xanh - sạch - phát thải thấp, cần một chiến lược xây dựng chính sách chủ động, lấy người sản xuất làm trung tâm, lấy giảm phát thải làm mục tiêu cụ thể và lấy thị trường làm động lực cuối cùng.
Hồng Minh