
Đổi mới trong xây dựng văn bản quản lý - mở đường cho thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị
12/08/2025TN&MTBên cạnh các yếu tố về chính sách, đầu tư của nhà nước trong việc cải thiện hạ tầng sản xuất đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi, giao thông và sự cần cù, sáng tạo của người dân, KHCN cũng góp phần không nhỏ vào việc cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm trong các lĩnh vực sản xuất, từ đó góp phần đảm bảo ANLT và giảm tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam. Theo ước tính, KHCN đóng góp cho khoảng 30 - 35% vào thành công trong sản xuất nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng. Sau 30 năm đổi mới, KHCN trong nông nghiệp đã giúp Việt Nam chuyển từ độc canh lúa sang phát triển nông nghiệp tương đối toàn diện.
Sự đóng góp của KHCN đặc biệt là trong chọn tạo giống cây trồng vật nuôi, kỹ thuật canh tác cải tiến, tổ chức và quản lý sản xuất (trang trại, cánh đồng lớn, liên kết...) đã giúp sản lượng lúa tăng 4,3 lần, sản lượng ngô tăng 13,4 lần, sản lượng cà phê tăng 234,5 lần; sản lượng chăn nuôi tăng 30 lần, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 25,2 lần; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,1 lần. Theo đó, an ninh lương thực được bảo đảm, tỷ trọng lao động nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản đã giảm từ 73% năm 1990 xuống còn 26%% năm 2024, tỷ trọng nghèo ở nông thôn cũng đã giảm từ 66,4% năm 1993 xuống còn 17,4% năm 2010, còn 5,38% năm 2018 và 2,4% năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông sản liên tục tăng với tốc độ trung bình là 10,7% trong vòng 10 năm qua. Chất lượng nông sản ngày càng được cải thiện, giúp cho hàng nông sản của chúng ta vươn xa trên thị trường quốc tế.
Tại VAAS, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong nhiệm kỳ 2021 - 2025 đã đạt được nhiều thành tựu khích lệ, đóng góp tích cực cho sự phát triển các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của đất nước (lúa gạo, rau quả, cà phê, hạt điều, sắn và hồ tiêu), góp phần tăng trưởng ổn định kim ngạch xuất khẩu nông sản trong những năm qua. Những đóng góp tích cực của Viện được Bộ Nông nghiệp và PTNT và các Bộ, ngành đánh giá cao.
Thông qua thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã tạo ra 165 giống cây trồng được công nhận lưu hành/tự công bố lưu hành, trung bình mỗi năm toàn VAAS công nhận lưu hành/tự công bố lưu hành khoảng 50 giống cây trồng mới. Trong giai đoạn này, toàn VAA đã công nhận được 24 tiến bộ kỹ thuật và 88 quy trình cấp cơ sở. Nhiều quy trình, tiến bộ kỹ thuật đã được người dân áp dụng rộng rãi trên địa bàn cả nước.
Kế thừa, phát huy và tiếp tục chọn, tạo, các giống cây trồng mới trong giai đoạn 5 năm vừa qua đã góp phần quan trọng trong cơ cấu giống cây trồng của toàn quốc, cụ thể:
- Giống lúa: Diện tích gieo trồng giống của VAAS chiếm 59% diện tích lúa cả nước, 77% diện tích lúa ĐBSCL. VAAS có 5/10 giống lúa có diện tích trồng lớn nhất Việt Nam, 8/10 giống lúa có diện tích trồng lớn nhất ĐBSCL. Năng suất giống lúa mới tăng 9,9%, nhờ đó tăng sản lượng lúa khoảng 2,4 triệu tấn/năm, mang lại giá trị kinh tế gia tăng khoảng 12.000 tỷ đồng/năm.
- Giống ngô: Đã chọn tạo và phát triển hơn 40 giống ngô mới có năng suất cao, nhiều giống có khả năng chống chịu hạn, bệnh gỉ sắt, thối thân. Một số giống ngô lai có năng suất cao tới 10 tấn/ha tương đương với các giống nhập nội. Diện tích gieo trồng giống của VAAS chiếm 40% tổng diện tích ngô cả nước. Các giống ngô do Việt Nam tạo ra không thua kém về năng suất và chất lượng so với giống của các công ty nước ngoài nhập nội vào Việt Nam nhưng giá thành rẻ hơn khoảng 1/3. Ước tính hàng năm đã tiết kiệm cho sản xuất khoảng 300 tỷ đồng từ việc mua hạt giống. Giống và các giải pháp canh tác của Viện đã mang lại giá trị kinh tế gia tăng khoảng 1.260 tỷ đồng/năm.
- Giống điều: Các giống điều của Viện đã được phát triển, giới thiệu đưa vào sản xuất. Diện tích điều ghép với các giống của Viện đạt 120.000 ha, tương đương 41% diện tích điều của cả nước. Với năng suất tăng 0,32 tấn/ha, tương đương sản lượng tăng 60.000 tấn điều thô/năm đã mang lại giá trị kinh tế gia tăng trên 4.760 tỉ đồng/năm.
- Giống cà phê: Các giống cà phê vối của Viện được công nhận đưa vào sản xuất có tỉ lệ hạt R1 70 - 90%, gấp 2 lần các giống cũ, có năng suất và chất lượng cao (4,5 đến trên 5,0 tấn nhân/ha). Cây cà phê Việt Nam đã có những đột phá về năng suất, đạt 2,6 tấn nhân/ha, cao hơn 3 lần so với năng suất cà phê trên thế giới. Diện tích trồng mới và ghép cải tạo sử dụng giống của Viện đạt 200.000 ha tương đương 30% diện tích cà phê của cả nước, chiếm 100% diện tích trồng tái canh. Quy trình tổng hợp tái canh cà phê tại Tây Nguyên hiện đã áp dụng trên 100.000 ha cà phê đã già cỗi, năng suất thấp. Quy trình, kỹ thuật và các TBKT của Viện (tái canh cà phê, thâm canh cà phê và tưới nước tiết kiệm) được áp dụng trên diện tích 320.000 ha. Tổng giá trị kinh tế gia tăng từ giống và các tiến bộ kỹ thuật ước đạt khoảng 5.200 tỉ đồng/năm.
- Giống chè: Các giống chè mới được chọn tạo thành công và công nhận giống quốc gia, gieo trồng trên diện tích 74.000 ha, chiếm 57% tổng diện tích chè toàn quốc. Giá trị kinh tế gia tăng nhờ giống và tiến bộ kỹ thuật của Viện đạt khoảng 1.800 tỉ đồng/năm.
- Giống cây ăn quả: Viện phát triển 2 giống thanh long LĐ1 và LĐ5 ruột đỏ trên diện tích 20.000 ha, chiếm 45% diện tích thanh long trên cả nước, có năng suất trung bình 40 - 50 tấn/ha, (tăng 74,5% so với giống cũ) đã làm lợi cho sản xuất khoảng 13.000 tỷ đồng/năm. Giống xoài mới của Viện phát triển từ giống xoài Cát Hòa Lộc đang được trồng trên diện tích 17.000 ha, chiếm 20% diện tích xoài của cả nước, có năng suất trung bình đạt 10 tấn/ha, giá bán khoảng 35,0 triệu đồng/tấn đã làm lợi cho sản xuất khoảng 2.890 tỷ đồng/năm. Giống bưởi Da xanh của Viện đang được trồng trên diện tích 36.000 ha, chiếm 60% tổng diện tích trồng cả nước. Với năng suất trung bình đạt 25 tấn/ha đã làm lợi cho sản xuất khoảng 9.900 tỷ đồng/năm. Các giống nhãn chín sớm chín muộn ở phía Bắc được trồng trên diện tích 24.000 ha, chiếm 44,5% diện tích nhãn miền Bắc có năng suất 16-17 tấn/ha (cao hơn 38% so với giống đại trà) đã làm lợi cho sản xuất 900 tỷ đồng/năm. Giống nhãn Xuồng Cơm Vàng đang được trồng trên diện tích 14.660 ha, chiếm 33,8% diện tích nhãn miền Nam và làm lợi cho sản xuất khoảng 2.219 tỉ đồng/năm.
Ngoài ra, còn nhiều thành tựu về giống rau, hoa, cây có củ, nấm ăn và nấm dược liệu đã góp phần không nhỏ cho phát triển sản xuất.
Theo ước tính, việc áp dụng các giống cây trồng và áp dụng quy trình canh tác tiên tiến đã mang lại hiệu quả kinh tế xấp xỉ 60.500 tỷ đồng/năm trong đó chỉ riêng giống cây trồng khoảng 55.000 tỷ đồng/năm, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP trong nông nghiệp. Tỷ suất làm lợi kinh tế/tổng đầu tư cho KHCN từ ngân sách Nhà nước trung bình đạt xấp xỉ 100 lần.
Bối cảnh mới đang đặt ra cho KHCN những thời cơ và thách thức mới. Điều kiện tiếp cận và ứng dụng KHCN trong nông nghiệp ngày càng thuận lợi khi quan hệ sản xuất được cải thiện, khi nền sản xuất đang chuyển biến tích cực từ sản xuất nhỏ, manh mún sang nền sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn. Tuy nhiên, sự giao thoa KHCN thế giới, sự chuyển dịch từ một nền sản xuất số lượng sang nền sản xuất chất lượng, an toàn và sự chuyển đổi nền sản xuất từ phục vụ nội tiêu sang phục vụ thị trường toàn cầu và những thách thức của biến đổi khí hậu đặt ra cho KHCN những nhiệm vụ nặng nề hơn, đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản về chất lượng, sự đầu tư nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu và tiệm cận với trình độ của KHCN trong khu vực cũng như KHCN thế giới. Hàng nông sản Việt nếu muốn tiếp tục có chỗ đứng và vươn xa hơn đòi hỏi KHCN không chỉ cần sự thay đổi toàn diện để cải thiện chất lượng mà còn phải vươn tới giảm giá thành, xây dựng được uy tín và thương hiệu.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc đổi mới cơ chế chính sách, đặc biệt là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý trong ngành nông nghiệp và môi trường, là điều kiện tiên quyết. Thay mặt Đảng ủy Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, tôi xin trình bày tham luận với chủ đề: Đổi mới trong xây dựng văn bản quản lý - Mở đường cho thực hiện Nghị quyết 57.
Mặc dù trong thời gian gần đây, hàng loại các quy định, hướng dẫn thực hiện hoạt động KHCN đã được sửa đổi, bổ sung hướng tới hoàn thiện nhằm thực tiễn hóa Nghị quyết 57, nhưng trên thực tiễn cho thấy, hệ thống văn bản quản lý khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường hiện nay còn nhiều hạn chế:
1. Nhiều quy định còn chồng chéo, thiếu đồng bộ giữa các văn bản; thiếu tính nhất quán trong nội dung văn bản với phụ lục của văn bản; trong các hợp đồng KHCN, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hợp đồng không cụ thể và rõ ràng.
2. Nhiều văn bản được chỉnh sửa, bổ sung nhiều lần, khi cần áp dụng phải tham khảo văn bản được ban hành lần đầu và tất cả các lần sửa sau đó; diễn đạt trong các văn bản đôi chỗ không rõ ràng, gây nhầm lẫn cho người sử dụng.
3. Chậm cập nhật thực tiễn khoa học và công nghệ mới như công nghệ gen trong việc xác minh giống cây trồng;
4. Quy trình đề xuất, xây dựng và phê duyệt nhiệm vụ KHCN còn bất cập. Một thực trạng phổ biến là nội dung và sản phẩm khoa học được phê duyệt trước, sau đó mới đến bước thẩm định tài chính. Tuy nhiên, quyết định đặt hàng các nhiệm vụ không có dự kiến mức kinh phí, do đó thường xảy ra bất cập, lượng kinh phí cấp không đủ so với khi thẩm định thuyết minh, nhiều nội dung phải cắt bỏ hoặc giảm quy mô.
5. Công tác quản lý hành chính và khoa học từ Bộ còn một số điểm chưa nhất quán đối với Viện xếp hạng đặc biệt, thể hiện rõ nhất là có lúc công văn gửi đến VAAS và yêu cầu VAAS xử lý; có thời điểm công văn chỉ gửi trực tiếp đến các viện thành viên, bỏ qua vai trò điều phối và tổng hợp của Viện VAAS; nhưng và có trường hợp gửi song song cả đến VAAS và các viện thành viên.
6. Vấn đề chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học đã được nhắc nhiều trong các diễn đàn và cả Nghị quyết 57. Các cơ quan quản lý cần định dạng loại hình rủi ro và phương pháp đánh giá rủi ro, đồng thời mức độ rủi ro cần xác định ngay trong giai đoạn đặt hàng để có đặt hàng thực tiễn hơn, đồng thời có giải pháp kiểm soát và kiểm định phù hợp để các đơn vị nghiên cứu có thể minh bạch hóa kết quả nghiên cứu.
Từ những thực tiễn trên, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam xin kiến nghị một số nội dung như sau:
1. Đơn giản hóa quy trình đề xuất, thẩm định và phê duyệt nhiệm vụ khoa học - công nghệ. Quy trình cần được thiết kế linh hoạt, đồng bộ ngay từ đầu giữa nội dung và kinh phí, bám sát với yêu cầu giải quyết các vấn đề trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
2. Tăng tỷ lệ và số lượng nhiệm vụ nghiên cứu tiềm năng, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng và nghiên cứu thăm dò. Đây là các bước cần thiết để tạo nền tảng khoa học vững chắc, làm cơ sở triển khai các nhiệm vụ quy mô lớn nhằm giải quyết đồng bộ và hiệu quả các vấn đề thực tiễn do Bộ đặt ra.
3. Khi phê duyệt danh mục nhiệm vụ KHCN, Bộ cần xác định mức kinh phí tối đa có thể bố trí để các tổ chức, cá nhân có căn cứ xây dựng nội dung nghiên cứu phù hợp.
4. Bảo đảm sự thống nhất trong công tác quản lý của Viện được xếp hạng đặc biệt. Trong hệ thống các Viện này thường có nhiều viện và trung tâm trực thuộc. Do vậy, cần có cơ chế điều phối thống nhất, tránh tình trạng ban hành công văn hoặc triển khai nhiệm vụ theo hướng phân tán, gây chồng chéo hoặc làm suy giảm vai trò đầu mối tổng hợp của viện cấp trên.
Việc đổi mới trong xây dựng và thực thi văn bản quản lý là bước khởi đầu có tính chất “mở đường” cho sự nghiệp phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong ngành nông nghiệp và môi trường. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam rất mong Đảng bộ quan tâm, chỉ đạo rà soát để các văn bản sát thực hơn với đặc thù trong nghiên cứu khoa học, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 57 và định hướng chiến lược của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong giai đoạn tới.
Tham luận của Đảng bộ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam