Một số ý kiến về áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường hiệu quả để kiểm soát thừa cân, béo phì

23/11/2024

TN&MTTại phiên thảo luận ở tổ ngày 22/11/2024 về dự án Luật Tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) trong chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng chưa đủ cơ cở khoa học chứng minh việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với nước giải khát (NGK) có đường sẽ có hiệu quả trong việc kiểm soát tỷ lệ thừa cân, béo phì.

Đối với đề xuất áp thuế 10% đối với mặt hàng nước giải khát có đường vào đối tượng chịu thuế, một số đại biểu đề nghị cân nhắc quy định này. Theo đại biểu Dương Minh Ánh - Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội, việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường không làm tăng thu ngân sách mà tác động tiêu cực chung tới nền kinh tế. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu áp dụng mức thuế tiêu thụ đặc biệt 10% với mặt hàng này, năm đầu tiên sẽ tăng khoảng 8.507 tỷ đồng nhưng ngân sách từ thuế trực thu sẽ giảm khoảng 2.152 tỷ đồng. Những năm tiếp theo thu ngân sách từ thuế gián thu và trực thu đều sụt giảm.

Do đó, cần phải có cơ sở để chứng minh được việc áp dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng nước giải khát có đường hàm lượng 5g/100ml có thể thay đối hành vi người tiêu dùng và đạt được hiệu quả cho việc giảm tỷ lệ người thừa cân béo phì so với những sản phẩm có đường khác như bánh, kẹo, ô mai, các sản phẩm từ sữa có đường. Kinh nghiệm cho thấy nhiều nước đánh thuế đồ uống có đường nhưng tỷ lệ thừa cân béo phì lại tăng lên.

Theo đại biểu Dương Minh Ánh - Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội, việc áp thuế TTĐB với NGK có đường không làm tăng thu ngân sách mà tác động tiêu cực chung tới nền kinh tế.

Với mục tiêu tăng thuế nhằm hạn chế người tiêu dùng không dùng sản phẩm nước ngọt có đường gây thừa cân béo phì nhưng có thể làm gia tăng việc người sử dụng các mặt hàng đồ uống sản xuất không chính thức hoặc sản phẩm sản xuất thủ công.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã chuyển đổi sang các sản phẩm đồ uống ít đường hàm lượng dưới 5g nhưng vẫn có độ ngọt sẽ không phải chịu thuế. Như vậy nếu việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với doanh nghiệp trong nước vô hình chung tạo sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.

Với những phân tích nêu trên, đại biểu Dương Minh Ánh đề xuất ban soạn thảo nghiên cứu chưa áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường…

Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật xem xét lại một cách toàn diện về đề xuất bổ sung mặt hàng nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB. Vì hiện nay còn nhiều ý kiến trái chiều từ các cơ quan quản lý Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia cũng như người tiêu dùng.

Về tác động sức khỏe, cơ quan soạn thảo đã đưa ra trong Báo cáo đánh giá tác động những số liệu về tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em tăng nhanh trong 10 năm qua. Tuy nhiên, cần xem xét cả bối cảnh tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, nhẹ cân ở trẻ em, đặc biệt ở miền núi nước ta cũng vẫn còn rất cao. Theo số liệu Tổng điều tra dinh dưỡng quốc gia năm 2019-2020, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi, nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi là 19,6% (cao hơn cả tỷ lệ thừa cân, béo phì) và có sự chênh lệch rất đáng kể giữa các vùng miền nhất là giữa miền núi, nông thôn với thành thị. Ví dụ, tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số suy dinh dưỡng, nhẹ cân nhiều hơn gấp 2,5 lần so với trẻ em là người Kinh.

Việc tăng thuế đối với nước giải khát có đường có thể sẽ không làm trẻ em ở khu vực thành thị giảm tiêu thụ sản phẩm này vì sự chênh lệch về giá thành trước và sau khi áp thuế so với thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị là không đáng kể, nhưng đối với khu vực vùng sâu, vùng xa hay ở khu vực dân tộc thiểu số, việc tăng giá dù không đáng kể cũng sẽ khiến cho trẻ em ở đây vốn đã ít có cơ hội được uống nước giải khát sẽ càng khó tiếp cận các mặt hàng này hơn.

Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung đề nghị xem xét lại một cách toàn diện về đề xuất bổ sung mặt hàng NGK có đường theo TCVN có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB.

Về tác động đối với thu ngân sách, Báo cáo đánh giá tác động cho thấy, nếu áp thuế TTĐB theo phương án đề xuất 10% bắt đầu từ năm 2026 thì sẽ làm tăng thu ngân sách khoảng 2.400 tỷ đồng năm đầu tiên, nhưng số thu các năm sau sẽ giảm, nhưng báo cáo không cung cấp thông tin về mức độ giảm là bao nhiêu. Theo báo cáo đánh giá tác động kinh tế của TTĐB đối với nước giải khát có đường do Viện quản lý kinh tế Trung ương thực hiện và công bố vào tháng 10 vừa qua thì nếu áp mức thuế TTĐB 10% đối với nước giải khát thì thu ngân sách từ năm thứ hai trở đi mỗi năm sẽ giảm khoảng 4.978 tỷ đồng từ thuế gián thu, chưa kể đến mức giảm tương ứng từ thuế trực thu.

Ngoài ra, trong Báo cáo cũng chỉ ra rằng, chính sách thuế này sẽ không chỉ tác động trực tiếp lên ngành đồ uống mà còn tác động lan tỏa tới 25 ngành trong nền kinh tế và dẫn đến sụt giảm GDP gần 0,5% GDP, tương ứng 42.570 tỷ đồng. Do vậy, Viện quản lý kinh tế Trung ương đề xuất chưa áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường.

Về kinh nghiệm quốc tế, theo Báo cáo đánh giá tác động của cơ quan soạn thảo, hiện nay đã có ít nhất 107 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường. Tuy nhiên, một báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phát hành ngày 05/12/2023 và đang đăng tải trên trang tin của tổ chức này cho biết thêm rằng, một nửa trong số các quốc gia này cũng áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với cả nước uống, mặc dù nước uống là mặt hàng được Tổ chức Y tế thế giới khuyến khích tiêu dùng. Vì vậy, Tổ chức Y tế thế giới cho rằng, không phải quốc gia nào cũng áp dụng chính sách thuế này vì mục đích sức khỏe mà chỉ đơn thuần là đưa tất cả các loại đồ uống vào diện chịu thuế.

Chính vì vậy, đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung cho rằng, cần nghiên cứu thêm đối với nội dung này để từ đó đề xuất các biện pháp kiểm soát tình trạng thừa cân, béo phì và các bệnh không lây nhiễm khác cho phù hợp. Ví dụ như, có những quốc gia như Ấn Độ, Mexico, Thái Lan, Philippines đã áp thuế TTĐB với đồ uống có đường nhiều năm nhưng tỷ lệ thừa cân, béo phì thì lại vẫn tiếp tục tăng, mặc dù tiêu thụ nước giải khát có đường giảm. Trong khi đó các quốc gia khác như Nhật Bản, Singapore hay Trung Quốc không áp dụng chính sách thuế này thì tỷ lệ thừa cân, béo phì lại được kiểm soát tốt.

Theo đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung, công cụ thuế này không hiệu quả trong việc làm thay đổi hành vì người tiêu dùng, đặc biệt là khi các đối tượng tiêu dùng mặt hàng nước giải khát có đường phần lớn là trẻ em. Các cơ quan nên tập trung vào các biện pháp tuyên truyền và giáo dục trong gia đình và trường học để các em thay đổi nhận thức và từ đó thay đổi hành vi tiêu dùng.

Do còn nhiều ý kiến khác nhau về tính hiệu quả cả về sức khỏe và kinh tế của đề xuất bổ sung nước giải khát có đường vào diện chịu TTĐB, theo tinh thần của Chủ tịch Quốc hội là chỉ có những vấn đề “đã chín, đã rõ thì sửa, cái gì chưa rõ thì phải tiếp tục nghiên cứu", đại biểu Thái Quỳnh Mai Dùng đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu thêm về vấn đề này và chưa đưa vào dự thảo mặt hàng còn nhiều tranh cãi này.

Đại biểu Cầm Hà Chung – Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ thì cho rằng, cơ quan soạn thảo đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường là chống tình trạng thừa cân, béo phì đang gia tăng tại Việt Nam, nhưng chưa có đánh giá tác động khi bổ sung đối tượng này vào diện chịu thuế. Cần làm rõ bổ sung đối tượng này sẽ giúp giảm tỷ lệ thừa cân, béo phì như thế nào? cần đánh giá thực trạng, nguyên nhân béo phì và nguyên nhân để đại biểu xem xét, quyết định.

Đại biểu Cầm Hà Chung – Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ cho rằng chưa có đánh giá tác động khi bổ sung nước giải khát có đường vào diện chịu thuế TTĐB.

Đề cập đến sự công bằng trong áp thuế tiêu thụ đặc biệt, đại biểu Cầm Hà Chung cho rằng vẫn chưa đảm bảo, bởi việc áp thuế 10% chủ yếu tập trung vào những sản phẩm đóng chai sẵn có; chưa tính đến các đồ uống pha chế tại chỗ như các cơ sở bán cafe, nước mía, trà chanh,… do không thể xác định được hàm lượng đường.

Ngoài ra, chính sách này sẽ tác động tiêu cực đến doanh nghiệp đồ uống Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp thuần túy nội địa. Vì vậy, đại biểu Cầm Hà Chung đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá kỹ hơn về tác động, biện pháp thực hiện cũng như lộ trình của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường.

Đại biểu Nguyễn Thanh Phong, Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long đánh giá, việc áp dụng mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt 10% được dự báo sẽ tác động không thuận lợi tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất nước giải khát và các ngành công nghiệp phụ trợ (CNPT). Ngoài ra, quy định này cũng có khả năng làm dịch chuyển xu hướng tiêu dùng của người dân sang gia tăng việc sử dụng các mặt hàng đồ uống được sản xuất không chính thức hoặc các sản phẩm sản xuất thủ công.

 Đại biểu Nguyễn Thanh Phong, Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long đánh giá việc áp thuế TTĐB 10% sẽ tác động không thuận lợi đến doanh nghiệp sản xuất NGK và ngành CNPT.

Đại biểu Nguyễn Thanh Phong đề nghị các cơ quan chuyên môn đưa ra những căn cứ, cơ sở khoa học để chứng minh rằng một trong những nguyên nhân gây béo phì, tăng tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2, tăng huyết áp… là do sử dụng nhiều nước giải khát có hàm lượng đường cao; và việc giảm tỷ lệ sử dụng nước giải khát có hàm lượng đường cao sẽ góp phần cải thiện tình trạng béo phì, các bệnh có liên quan.

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Việt Nam - Australia hợp tác phát triển nông nghiệp xanh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Nông nghiệp

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Giò chả Ước Lễ Xuân Hương, sản phẩm OCOP 4 sao - tinh hoa hương vị Việt giữ trọn hồn dân tộc

Đắk Lắk: Nông dân được mùa “vải thiều” nhờ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và ứng dụng khoa học kỹ thuật

Định hình cơ quan Nông nghiệp và Môi trường cấp xã trong giai đoạn mới

Tài nguyên

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Quảng Bình - Quảng Trị: Cơ hội vàng cho kinh tế biển bứt phá

Khai thác đúng sản lượng cấp phép, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Cộng đồng xanh Hà Nội: Khi những người trẻ chọn sống tử tế với môi trường

Ngô Quyền (Hà Đông): Đường thành bãi lầy sau mưa, dân khốn khổ vì bụi bẩn và ô nhiễm

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

3 huyện, thị xã về đích nông thôn mới

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt

Tiêu dùng xanh trong đô thị: Thay đổi thói quen hướng tới phát triển bền vững