
Nhiều khó khăn trong việc khắc phục sự cố tràn dầu, gây ô nhiễm môi trường
28/03/2023TN&MTLTS: Sự cố tràn dầu là một mối quan tâm môi trường đang gia tăng. Nó gây hại cho cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước. Sự cố tràn dầu trên biển có thể có tác động kinh tế nghiêm trọng đối với các hoạt động ven biển. Cũng như đối với những người khai thác tài nguyên trên biển. Do đó, các cộng đồng có nguy cơ xảy ra thảm họa dầu mỏ phải lường trước hậu quả và chuẩn bị cho chúng. Tuy nhiên, trong quá trình ứng phó còn rất nhiều khó khăn, cụ thể như thế nào, phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường điện tử đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Văn Sơn, Tổng Thư ký Hội bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam về thực tế này.
Ông Phạm Văn Sơn chia sẻ về sự cố môi trường Việt Nam
Phóng viên: Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam trong nhiều năm qua được biết đến là một đơn vị ứng cứu rất nhiều sự cố môi trường do dầu và hóa chất, đặc biệt là sự cố tràn dầu. Xin ông chia sẻ khái quát tình hình sự cố tràn dầu gây ô nhiễm môi trường hiện nay?
Ông Phạm Văn Sơn: Từ năm 1992 đến nay (tháng 2/2023) có 225 sự cố tràn dầu xảy ra tại Việt Nam (được ghi nhận thông qua các phương tiện truyền thông, trong các báo cáo), trong đó có 38 vụ ngoài khơi chiếm 17%, 105 vụ ven bờ chiếm 47% và 82 vụ trên đất liền chiếm 36%.
Sự cố tràn dầu ven bờ xảy ra nhiều nhất (47%) do rủi ro ở khu vực này cao hơn, mật độ lưu thông các tàu thuyền lớn, nguy cơ tàu va đâm nhau, hay tàu va đâm vào cầu cảng, bị mắc cạn cao hơn rất nhiều so với trên biển. Sự cố tràn dầu trên đất liền chiếm tới 36% không phải là con số nhỏ. Sự cố tràn dầu trên biển hay được quan tâm nhất, nhưng chỉ chiếm có 17%.
Phóng viên: Thưa ông, có phải tràn dầu là “thủ phạm” gây ra ô nhiễm biển?
Ông Phạm Văn Sơn: Có một thực tế là chúng ta mới chỉ quan tâm đến sự cố tràn dầu, coi sự cố tràn dầu là thủ phạm chính gây ô nhiễm biển. Nhưng chúng ta lại bỏ qua một thủ phạm khác nguy hiểm hơn nhiều lần. Đó là các nguồn ô nhiễm dầu phát thải từ hàng trăm ngàn các cơ sở trên bờ, các cửa hàng xăng dầu, các trạm sửa chữa cơ khí, rửa xe,… thải ra sông chảy ra biển, nước nhiễm dầu đáy tàu của hơn 100 ngàn tàu thuyền đánh cá hàng ngày xả trực tiếp ra biển không hề qua xử lý.
Tổng lượng dầu thải ra môi trường biển một cách âm thầm từ các nguồn nêu trên cao gấp hàng trăm lần so với tổng lượng dầu gộp lại từ các sự cố tràn dầu gây ra.
Hình ảnh ô nhiễm dầu và các phương án xử lý đang được triển khai
Phóng viên: Rất nhiều tình huống sự cố do thiên tai hoặc con người gây ra có thể gây hậu quả tổn thất về người, phương tiện, tài sản, vật chất và gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường nghiêm trọng trên phạm vi nhiều tỉnh thành vẫn được hiểu là “sự cố, thiên tai”, không liên quan gì đến “sự cố môi trường”, vậy đâu là bất cập thưa ông?
Ông Phạm Văn Sơn: Luật BVMT năm 2020 quy định: “sự cố môi trường” là sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc do biến đổi bất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, theo các văn bản hiện hành, rất nhiều tình huống sự cố do thiên tai hoặc con người gây ra có thể gây hậu quả tổn thất về người, phương tiện, tài sản, vật chất và gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường nghiêm trọng trên phạm vi nhiều tỉnh thành vẫn được hiểu là “sự cố, thiên tai”, không liên quan gì đến “sự cố môi trường” (Nghị định 30/2017/NĐ-CP, Điều 3, khoản 1). Cả sự cố tràn dầu (Quyết định 12/2021/QĐ-TTg, Điều 5, khoản 3), sự cố hóa chất (Quyết định 26/2016/QĐ-TTg, Điều 5, khoản 3), sự cố bức xạ hạt nhân (Quyết định 884/QĐ-TTg ngày 16.6.2017)… cũng đều là các sự cố tách biệt, không liên quan gì đến “sự cố môi trường”.
Các quy định nêu trên cũng không làm rõ “gây ô nhiễm, suy thoái môi trường nghiêm trọng” đến mức nào thì được hiểu là “sự cố môi trường”; đồng thời bỏ sót những vấn đề quan trọng như thời gian, phương pháp, trình tự xác định mức độ sự cố và ai đưa ra quyết định đó là “sự cố môi trường”?
Bất cập này dẫn đến thực tế khi sự cố xảy ra thì công tác chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ của các lực lượng chức năng rất lúng túng. Ví dụ, vụ cháy Nhà máy Bóng đèn phích nước Rạng Đông (tháng 9.2019) là tổng hợp của nhiều sự cố: cháy lớn; hóa chất độc phát tán vào môi trường không khí do cháy; hóa chất độc phát tán vào môi trường đất và môi trường nước do nước chữa cháy. Khi sự cố xảy ra, lực lượng phòng cháy, chữa cháy ngay lập tức có mặt. Tuy nhiên, các bước tiếp theo như biện pháp bảo đảm an toàn cho người dân xung quanh, hướng dẫn người dân tự bảo vệ mình, chỉ đạo hoạt động ứng cứu sự cố hóa chất song song với hoạt động chữa cháy, các biện pháp phòng ngừa để nước chữa cháy không cuốn hóa chất độc trôi thoát ra môi trường đất, nước… thì vô cùng lúng túng.
Hay sự cố ô nhiễm dầu thải nước đầu nguồn sông Đà (tháng 10.2019) liên quan đến tỉnh Hòa Bình và TP. Hà Nội. Sự cố này do nguyên nhân khách quan, nằm ngoài khả năng xử lý của cơ sở, rất cần sự hỗ trợ kỹ thuật của cấp tỉnh và cấp quốc gia để kịp thời ứng cứu và khắc phục sự cố liên vùng. Tuy nhiên, phần việc hệ trọng và cấp bách nhất là ứng cứu sự cố, xử lý ô nhiễm nguồn nước thì hai địa phương, các bộ, ngành không có sự chỉ đạo, huy động nguồn lực, phối hợp các lực lượng để triển khai.
Phóng viên: Là người đứng đầu Trung tâm SOS đã có thực tiễn ứng phó 168 sự cố tràn dầu tại Việt Nam (tính đến tháng 2/2023), trước thực trạng về các sự cố tràn dầu xảy ra tại Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là sự cố tràn dầu xảy ra trên biển, theo ông nên khắc phục bất cập trên như thế nào?
Ông Phạm Văn Sơn: Để giải quyết những bất cập nêu trên, trước hết cần thống nhất cách hiểu và làm rõ nội hàm của thuật ngữ “sự cố môi trường”. Cá nhân tôi đề xuất hiểu “sự cố môi trường” (do nhân tai) là sự cố gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người, môi trường, tài sản, với cách xác định cấp độ và loại như sau:
Xác định cấp độ: Rất khó đưa ra và thống nhất tiêu chí xác định cấp độ nghiêm trọng đến đâu, nên sẽ căn cứ vào vùng hành chính mà sự cố gây ảnh hưởng để xác định cấp. Ví dụ, nếu sự cố chỉ xảy ra ở trong phạm vi của cơ sở thì là “sự cố môi trường cấp cơ sở”, ở phạm vi rộng hơn sẽ là “sự cố môi trường cấp huyện”, “sự cố môi trường cấp tỉnh”, “sự cố môi trường cấp liên tỉnh” (hay “cấp quốc gia”).
Đội ngũ nhân lực của SOS xử lý sự cố tại hiện trường
Xác định loại: Sự cố xảy ra bao gồm nhiều sự cố đồng thời hoặc kế tiếp nhau do các tác nhân khác nhau, hoặc sự cố này là nguyên nhân gây ra sự cố khác thì gọi là sự cố môi trường hỗn hợp. Ví dụ: sự cố tại Nhà máy Bóng đèn phích nước Rạng Đông là “sự cố môi trường hỗn hợp cấp thành phố”. Nếu xác định được sự cố môi trường do tác nhân nào gây ra thì nêu rõ tác nhân đó. Ví dụ, sự cố tại Nhà máy Nước sạch Sông Đà là “sự cố môi trường do dầu thải cấp liên tỉnh”; sự cố tại Formosa Hà Tĩnh là “sự cố môi trường do chất thải cấp liên tỉnh”.
Nếu chúng ta thống nhất được cách hiểu và làm rõ nội hàm của thuật ngữ “sự cố môi trường” như đề xuất trên thì sẽ giải quyết được lỗ hổng trong việc xác định trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy, tổ chức hoạt động ứng phó sự cố của từng cấp và trách nhiệm pháp lý của từng cấp khi xảy ra sự cố. Cụ thể:
Trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy và tổ chức hoạt động ứng phó: Khi xảy ra “sự cố môi trường cấp cơ sở”, nếu cơ sở không có đủ khả năng ứng cứu xử lý thì sẽ kích hoạt kế hoạch ứng phó “sự cố môi trường cấp huyện” (kích hoạt ở đây được hiểu là cơ sở chủ động xin huyện trợ giúp, hoặc huyện nhận thấy cơ sở không đủ khả năng ứng cứu sẽ chủ động triển khai). Lúc đó trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy và tổ chức hoạt động ứng phó thuộc cấp huyện. Nếu cấp huyện không đủ năng lực thì sẽ kích hoạt kế hoạch ứng phó “sự cố môi trường cấp tỉnh”. Lúc đó trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy và tổ chức hoạt động ứng phó thuộc cấp tỉnh. Nếu cấp tỉnh không đủ năng lực thì sẽ kích hoạt kế hoạch ứng phó “sự cố môi trường cấp liên tỉnh”. Lúc đó trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy và tổ chức hoạt động ứng phó thuộc cấp quốc gia.
Trách nhiệm pháp lý: Nếu cơ sở không đủ năng lực ứng cứu sự cố thì trách nhiệm thuộc về cơ sở do không triển khai thực hiện nghiêm túc kế hoạch phòng ngừa ứng phó sự cố. Nếu cấp huyện không đủ năng lực ứng cứu khi cơ sở yêu cầu hỗ trợ thì trách nhiệm thuộc về cấp huyện do không triển khai thực hiện kế hoạch ứng phó sự cố cấp huyện, không bố trí nguồn lực theo kế hoạch, đồng thời chịu trách nhiệm về việc không quản lý giám sát tốt việc triển khai thực hiện kế hoạch ứng phó sự cố của các cơ sở trên địa bàn do huyện quản lý. Tương tự như vậy đối với cấp tỉnh, cấp quốc gia.
Việc thống nhất cách hiểu như trên còn giúp tháo gỡ được những lúng túng hay tranh chấp thường gặp khi xảy ra sự cố. Do có qui định mức tiền phạt tăng tỷ lệ thuận với lượng dầu tràn nên bên gây sự cố luôn tìm cách làm giảm lượng dầu tràn ít nhất có thể so với thực tế trong hồ sơ. Ví dụ: Hơn 40 tấn dầu tràn từ kho xăng dầu ra đồng ruộng với diện tích rất lớn nhưng chỉ xác nhận có 1 tấn dầu tràn. Gần 100 tấn dầu thoát ra từ tàu chìm gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên diện rộng, nhưng chỉ xác nhận lượng dầu tràn chưa đến 2 tấn,… Xác định lượng dầu tràn thực tế là việc khó, nhưng xác định vùng sự cố gây tác động cũng như năng lực ứng cứu kịp thời, hiệu quả và triệt để của các cấp cơ sở, huyện, tỉnh,… là việc dễ.
Cùng với việc thống nhất cách hiểu và làm rõ nội hàm của thuật ngữ “sự cố môi trường”, cần xác định lại rõ trách nhiệm chỉ đạo, chỉ huy, phối hợp lực lượng, huy động nguồn lực, tổ chức hoạt động ứng phó sự cố môi trường của cá nhân/tổ chức các cấp. Đồng thời, kiện toàn Ban chỉ đạo, ban chỉ huy ứng phó sự cố môi trường các cấp. Trong Ban chỉ đạo, ban chỉ huy ứng phó sự cố cần phải có những thành viên có kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm thực tế để bảo đảm đủ năng lực chỉ đạo, chỉ huy chính xác, kịp thời, hiệu quả.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
Hồng Minh (thực hiện)