Quy hoạch không gian biển Cơ hội thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi

17/12/2023

TN&MTBằng cách huy động sự tham gia của các bên liên quan, quy hoạch không gian biển có thể bảo đảm sự phát triển bền vững về mặt xã hội và môi trường của các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi,… Quy hoạch không gian biển sẽ là giải pháp để thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi và giúp Việt Nam đạt mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Quy hoạch không gian biển Cơ hội thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi

Quy hoạch không gian biển: “giải phóng” tiềm năng điện gió ngoài khơi

TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHCN và Môi trường của Quốc hội cho biết, theo tính toán, khu vực có độ sâu đáy biển trên 20 mét thì tổng quy mô tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi khoảng 165.000 MW. Trong đó, khu vực gió cao và có tiềm năng kinh tế tốt, chủ yếu tập trung ở khu vực Nam Trung Bộ (gồm các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định) với tổng tiềm năng khoảng 80.000 MW với tốc độ gió trên 7-9 m/s.

Phát triển năng lượng tái tạo là chủ trương lớn của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam, trong đó điện gió ngoài khơi được coi là một trong những giải pháp đột phá để chuyển đổi năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Điều này liên quan chặt chẽ đến quy hoạch không gian biển, đặc biệt là xác định các vùng biển tiềm năng và phân vùng hợp lý để phát triển điện gió ngoài khơi.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 582/NQ-UBTVQH15 ngày 29/8/2022 về thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021”, cũng như Kế hoạch chi tiết số 355/KH-ĐGS 28/10/2022 về giám sát chuyên đề.

Quy hoạch không gian biển Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ góp phần khai thác bền vững “mỏ ánh sáng” từ năng lượng gió ngoài khơi, mà còn góp phần bảo vệ tài nguyên biển. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển “biển xanh bền vững” - Đây là nhận định của bà Hilde Solbakken - Đại sứ Na Uy tại Việt Nam về tiềm năng phát triển điện gió tại Việt Nam.

Theo Đại sứ Solbakken, việc “giải phóng” tiềm năng điện gió ngoài khơi thông qua quy hoạch không gian biển bền vững sẽ góp phần giúp Việt Nam đạt được 2 mục tiêu rất quan trọng là: Thực hiện mục tiêu thu nhập cao và đưa phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam vào năm 2050. Từ kinh nghiệm của một quốc gia đại dương hàng đầu với những ngành kinh tế biển nổi bật, Đại sứ Solbakken nhấn mạnh việc quy hoạch không gian biển sẽ giúp đại dương được quản lý bền vững và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện tầm nhìn chung về một tương lai xanh, bền vững và thịnh vượng.

Tại Việt Nam, quy hoạch không gian biển định hướng sử dụng không gian biển bao gồm: Vùng trời, vùng đất ven biển, các đảo, quần đảo, vùng biển và vùng nước ven đảo. Trong đó, vùng biển dự kiến được phân thành 5 vùng: Vùng cấm khai thác; vùng khai thác có điều kiện; khu vực khuyến khích phát triển đối với các ngành kinh tế biển; khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho QP-AN, BVMT, bảo tồn hệ sinh thái; vùng nghiên cứu lập quy hoạch. Đối với các khu vực được quy hoạch để phát triển điện gió ngoài khơi, hiện nay mới chỉ xác định các vùng biển có tiềm năng phát triển điện gió theo khu vực và địa danh các tỉnh như: Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Trà Vinh, Cà Mau, Sóc Trăng.

Theo TS. Tạ Đình Thi, phát triển năng lượng tái tạo là chủ trương lớn của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam, trong đó điện gió ngoài khơi được coi là một trong những giải pháp đột phá để chuyển đổi năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Đây cũng là nội dung có liên quan chặt chẽ đến Quy hoạch không gian biển đang được Chính phủ giao Bộ TN&MT chủ trì lập và sẽ được trình Quốc hội thông qua trong thời gian tới. Việc phân bổ hợp lý không gian sử dụng biển sẽ giúp đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái và đa dạng sinh học, bảo đảm QP-AN và đối ngoại, hợp tác quốc tế hiệu quả.

Báo cáo “Kinh tế biển xanh - Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” do UNDP và Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ TN&MT công bố cho thấy, nếu thực hiện kịch bản “phát triển bền vững”, ước tính các ngành kinh tế biển của Việt Nam có thể chiếm 34% GDP (tương đương 23,5 tỷ USD) vào năm 2030, trong khi GNI bình quân đầu người của người lao động trong các ngành này sẽ tăng tới 77,9 % (tương đương 7.100 USD) so với kịch bản thông thường.

Việc đẩy nhanh quy hoạch không gian biển là điều cần thiết để mở ra tiềm năng to lớn về phát triển điện gió ngoài khơi cho Việt Nam, góp phần thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững và các mục tiêu về BĐKH đã công bố tại COP26, trong đó có phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Quy hoạch không gian biển nên được coi là một quá trình liên tục. Các chuyên gia về biển đảo đã khuyến nghị, chúng ta không được tìm cách phát triển một tài liệu duy nhất, hoàn hảo và bao gồm tất cả ở giai đoạn này. Điều quan trọng là phải bảo đảm quy trình xây dựng và ban hành Quy hoạch không gian biển cũng như xác định các khu vực phát triển điện gió xa bờ được thực hiện một cách công khai, có tham khảo ý kiến của mọi đối tượng trong xã hội. Sự tham gia của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là cộng đồng địa phương đóng vai trò rất quan trọng, để bảo đảm lợi ích được chia sẻ một cách công bằng và bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương.

Theo nhận định của các chuyên gia về điện gió, bằng cách tạo ra một khuôn khổ ra quyết định và huy động sự tham gia của các bên liên quan, quy hoạch không gian biển có thể bảo đảm sự phát triển bền vững về mặt xã hội và môi trường của các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, góp phần đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của Việt Nam.

Khó khăn phía trước

Hiện nay, Việt Nam mới chỉ xác định các vùng biển có tiềm năng phát triển điện gió theo khu vực và địa danh các tỉnh như: Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Trà Vinh, Cà Mau, Sóc Trăng.

Liên quan đến vấn đề này, TS. Nguyễn Minh Sơn, chuyên gia về biển, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam, thành viên nhóm xây dựng quy hoạch không gian biển cho biết: Phân vùng biển theo bốn vùng phát triển kinh tế biển đã có một số kết quả ban đầu. Tuy nhiên, việc phân vùng vẫn còn hạn chế do thông tin, dữ liệu đầu vào. Đơn cử, nhiều sinh cảnh quan trọng như rạn san hô, thảm cỏ biển chưa xác định được diện tích, ranh giới; nhiều quy hoạch ngành chưa được phê duyệt, nên dữ liệu sử dụng tích hợp vào quy hoạch chung có thể thay đổi.

Cùng với đó, cần có nghiên cứu chuyên sâu xác định các tiêu chí và khu vực đối với vùng ưu tiên/khuyến khích phát triển điện gió, hỗ trợ việc cấp phép sử dụng biển của nhà quản lý và định hướng đầu tư của các nhà đầu tư.

Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đánh giá quá trình quy hoạch không gian biển ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, trong đó, cần tránh mâu thuẫn giữa các ngành, tránh gây ra xung đột giữa phát triển kinh tế với bảo tồn môi trường và đa dạng sinh học.

Ông Phạm Tiến Dũng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, cho rằng rào cản với Việt Nam khi xây dựng điện gió ngoài khơi đến từ hành lang pháp lý vẫn còn non trẻ, nhiều tiêu chí còn đơn giản, rời rạc, thiếu hệ thống. Cùng với đó, Việt Nam còn thiếu quy định về tiêu chuẩn lựa chọn nhà đầu tư, hay tiêu chí kỹ thuật về an toàn và môi trường. 

Đề xuất một số giải pháp

Khai thác, sử dụng không gian biển hiệu quả, lâu bền trên cơ sở tăng cường quản lý tổng hợp TNMT biển. Từ đó làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành và địa phương có biển xây dựng và điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến việc khai thác, sử dụng không gian biển. Theo đó, phạm vi không gian bao gồm vùng đất ven biển, vùng trời, vùng biển và các hải đảo của Việt Nam. Phạm vi thời gian: Quy hoạch được lập đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện đối với mỗi kỳ quy hoạch là 5 năm. Các sản phẩm cụ thể của quy hoạch không gian biển đó là: Định hướng bố trí sử dụng không gian biển cho các hoạt động trong các vùng đất ven biển, vùng biển và hải đảo của Việt Nam, xác định các vùng và phân vùng sử dụng không gian biển; lập bản đồ phân vùng không gian biển; xây dựng và đề xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch; đánh giá môi trường chiến lược của Quy hoạch không gian biển; bản đồ Phân vùng không gian biển quốc gia đến năm 2050: tỷ lệ 1/1.000.000.

Để đạt được các mục tiêu và kết quả theo dự tính này, theo các chuyên gia hiện nay, nước ta đang rất thiếu các “dữ liệu đầu vào” cho việc xây dựng quy hoạch; đặc biệt dữ liệu để tính toán ở mỗi vùng cụ thể, thời điểm nào nên sử dụng vào mục đích gì. Việc này cần phải “định lượng” cụ thể và có tính khoa học, không thể quy hoạch theo “định tính”. Bên cạnh đó, vấn đề về công nghệ cũng là một nguyên nhân hết sức quan trọng như: Cần phải sử dụng phần mềm nào, trên hệ thống nào để có thể nhập cơ sở dữ liệu và cho ra một kết quả có độ chính xác cao nhất cũng là vấn đề rất lúng túng, chưa tìm được công nghệ phù hợp.

Trên thế giới đã có rất nhiều nước xây dựng thành công quy hoạch không gian biển nên vấn đề công nghệ không phải là nhân tố khó khăn. Các chuyên gia thuộc UNESCO đã giúp nhiều nước xây dựng thành công quy hoạch không gian biển có thể đề xuất phần mềm công nghệ trong xử lý các dữ liệu, giúp cho việc xây dựng quy hoạch không gian biển Việt Nam.

Còn về thông tin dữ liệu đầu vào, không phải quốc gia nào xây dựng thành công QHKG biển và quản trị tốt đại dương cũng có đầy đủ cơ sở dữ liệu mà chỉ cần xác định những cơ sở dữ liệu nào là mấu chốt, quan trọng nhất để đưa vào thực hiện, sau đó sẽ dần hoàn chỉnh. Được biết về vấn đề này, phía UNESCO sẽ giúp Việt Nam về mặt mời các chuyên gia và các nhà khoa học tập huấn và gợi ý những vấn đề cần xác định trọng tâm.

Để những hỗ trợ từ phía UNESCO đi vào thực chất và mang lại hiệu quả thiết thực trong việc xây dựng quy hoạch không gian biển Việt Nam, chuyên gia thuộc Chương trình điều phối bộ phận Khoa học tự nhiên của UNESSCO đã đề xuất ý tưởng Chương trình hỗ trợ thực hiện quy hoạch không gian biển cho phía Việt Nam với mục tiêu cụ thể là: Tăng cường năng lực thể chế trong lĩnh vực quản trị biển và QHKG biển; truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng về biển và đại dương; đẩy mạnh hợp tác với đối tác tư nhân. Trong đó, nêu rõ 3 kết quả dự kiến quan trọng đạt được: Tăng cường năng lực thể chế về quản trị hải dương và QHKG biển trong nước; thiết lập hệ thống dữ liệu khoa học cho quy hoạch và quản lý biển và ven biển được thành lập; tăng cường năng lực về QHKG biển và nâng cao nhận thức và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên biển.

Đối với vấn đề kỹ thuật cụ thể, sẽ hỗ trợ để điều chỉnh các phương pháp, công cụ, hướng dẫn cho quy hoạch biển, ven biển, phù hợp với quy trình lập kế hoạch hiện có. Hỗ trợ phát triển công cụ hỗ trợ ra quyết định để phân tích kịch bản xu hướng thay đổi TN&MT trong bối cảnh tác động của BĐKH, kịch bản về nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, kịch bản cho sự phát triển của ngành liên quan.

Hy vọng, với ý tưởng đề xuất khá cụ thể và sát với thực tiễn khó khăn và hoạt động lập QHKG biển Việt Nam đang vướng mắc, UNESCO cùng các chuyên gia hàng đầu trên thế giới sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng được QHKG biển và quản trị đại dương đạt được mục tiêu đã đặt ra trong thời gian tới.

NGỌC DIỆP

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17+18 (Kỳ 1+2 tháng 9) năm 2023

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Cơ hội tái cấu trúc của Trường Cán bộ quản lý NN-PTNT

Việt Nam - Australia hợp tác chiến lược về nông nghiệp và môi trường

Nghiên cứu công nghệ mũi nhọn, phát triển nông nghiệp thông minh

Việt Nam - Australia hợp tác phát triển nông nghiệp xanh, giảm nhẹ rủi ro thiên tai

Nông nghiệp

Lâm Hà công nhận 56 sản phẩm OCOP

Quảng Bình hoàn thành 1.450 căn nhà đợt 1 cho hộ nghèo, hộ cận nghèo - Vượt tiến độ đề ra

Giò chả Ước Lễ Xuân Hương, sản phẩm OCOP 4 sao - tinh hoa hương vị Việt giữ trọn hồn dân tộc

Đắk Lắk: Nông dân được mùa “vải thiều” nhờ liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và ứng dụng khoa học kỹ thuật

Tài nguyên

Đổi thay tích cực cho nghề nuôi biển: Tháo gỡ các nút thắt

Nam Định: Quản lý hiệu quả tài nguyên khoáng sản

Quảng Bình - Quảng Trị: Cơ hội vàng cho kinh tế biển bứt phá

Khai thác đúng sản lượng cấp phép, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên

Môi trường

Lạng Sơn đón nhận Danh hiệu Công viên địa chất toàn cầu UNESCO

Giữ vững màu xanh cho rừng Vân Hồ: Hiệu quả từ sự vào cuộc đồng bộ

Hà Tĩnh: Tích cực nâng cao công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng

Cộng đồng xanh Hà Nội: Khi những người trẻ chọn sống tử tế với môi trường

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Lâm Đồng: Hội thảo hợp tác công nghệ y sinh Việt Nam - Cu Ba

Ứng dụng AI - Nâng chuẩn an toàn thực phẩm, phát triển doanh nghiệp xanh

Nghiên cứu xác định khu vực thuận lợi cho trồng di thực cây sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Ninh dựa trên đánh giá tài nguyên khí hậu và đất

Thiên Phúc - Đưa khoa học vào từng sợi nấm

Chính sách

Tập trung ứng phó với mưa lớn ở miền núi trung du Bắc Bộ

Thủ tướng chỉ đạo tăng cường phòng, chống thiên tai trước mùa mưa bão năm 2025

Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) với chiến lược giám sát kháng thuốc: Định hình hành động liên ngành

3 huyện, thị xã về đích nông thôn mới

Phát triển

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường - IWEDI: Kết nối trí tuệ nữ doanh nhân với truyền thông nông nghiệp xanh

Định hướng ngành Nông nghiệp và Chăn nuôi phát triển theo tiêu chuẩn toàn cầu

10 sáng kiến tiêu biểu chống ô nhiễm nhựa

Thúc đẩy chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường

Diễn đàn

Hành trình đến Net Zero: Hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận nguồn vốn xanh

Thời tiết ngày 27/6: Vùng núi, trung du Bắc Bộ mưa rất to

Số hóa và truy xuất nguồn gốc để nâng giá trị nông sản Việt

Tiêu dùng xanh trong đô thị: Thay đổi thói quen hướng tới phát triển bền vững