Thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu để xây dựng một đất nước xanh, sạch bền vững

25/03/2023

TN&MTHiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tích cực triển khai các chuỗi Hội thảo để lấy ý kiến tham vấn từ các doanh nghiệp là nhà sản xuất, nhập khẩu cho dự thảo định mức chi phí tái chế đối với các loại sản phẩm, bao bì (Fs) trước khi trình Chính phủ phê duyệt vào cuối năm và kịp thời triển khai từ ngày 1/1/2024. Xác định mức chi phí tái chế (FS) rất quan trọng để đạt được mục tiêu của trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) cũng như bảo đảm tính khả thi của cơ chế EPR trong việc thực thi theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ.

Lộ trình và đề xuất phương pháp thực hiện EPR trong những năm tới

Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ quy định, nhà sản xuất, nhập khẩu một số loại sản phẩm, bao bì phải có trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì đó theo tỷ lệ tái chế bắt buộc và quy cách tái chế theo lộ trình. Trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì sẽ được nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm gồm pin ắc quy, săm lốp, dầu nhớt và bao bì (bao bì thương phẩm của thực phẩm, mỹ phẩm, thuốc, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, chất tẩy rửa, xi măng thương phẩm) thực hiện từ ngày 1/1/2024; nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm điện, điện tử sẽ thực hiện trách nhiệm tái chế từ ngày 1/1/2025; các nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm phương tiện giao thông sẽ thực hiện trách nhiệm tái chế từ ngày 1/1/2027.

Thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu để xây dựng một đất nước xanh, sạch bền vững

Bộ TN&MT tổ chức lấy ý kiến tham vấn các chuyên gia, cộng đồng nhà sản xuất, nhập khẩu để hoàn thiện Fs

Theo dự thảo của Nghị định, phương pháp xác định Fs đã được các chuyên gia nghiên cứu, và hiện đang được các nhà sản xuất, nhập khẩu đang thảo luận để lựa chọn phương pháp xác định Fs, trong đó nổi lên ba phương pháp chính:

Phương pháp thứ nhất, xác định mức chi phí tái chế cơ bản và chi phí tái chế nâng cao do Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (INEST), Đại học Bách khoa Hà Nội đề xuất:

*Định mức chi phí tái chế cơ bản là định mức được xác định trên cơ sở các chi phí trung bình trong quá trình thu gom và chi phí tối thiểu trong tái chế để đạt được quy cách tái chế tối thiểu quy định tại cột 5 Phụ lục XXII Nghị định số 08/2022/NĐ-CP.

Chi phí tối thiểu trong tái chế để đạt được quy cách tái chế tối thiểu quy định tại cột 5 Phụ lục XXII Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được chuyên gia, nhà tái chế đánh giá là có thể xác định dựa trên các chi phí được định lượng trong quá trình tái chế và mức khấu hao công nghệ ở mức trung bình. Tuy nhiên, chi phí thu gom là vấn đề nan giải vì nó phụ thuộc nhiều đến chi phí vận chuyển với tỷ lệ tái chế bắt buộc thấp và vật liệu thu gom sẵn có thì phạm vi thu gom có thể gần; nhưng với tỷ lệ tái chế bắt buộc cao, vật liệu thu gom phân bố xa khu vực trung tâm hoặc khu vực tái chế thì chi phí vận chuyển sẽ tăng lên tương ứng. Do vậy, việc xác định chi phí thu gom trung bình sẽ rất khó khăn. Theo khảo sát của INEST, chi phí tái chế cơ bản đối với vật liệu PET là từ 17.000 đồng/kg đến 28.000 đồng/kg.

*Chi phí tái chế nâng cao là chi phí tái chế tăng thêm vào định mức chi phí cơ bản, chi phí này được xác định theo mức độ khó trong thu gom, tái chế của sản phẩm (như sử dụng nhiều vật liệu, có sử dụng màu, có nhiều chất thải nguy hại, kích cỡ của sản phẩm bao bì, công nghệ tái chế trong nước chưa đáp ứng được…). Đây cũng là yêu cầu khó trong xác định chi phí nâng cao bởi các sản phẩm, bao bì hiện nay rất phong phú về thiết kế cũng như sử dụng vật liệu và đặc biệt là các thiết kế đều chạy theo thị hiếu người tiêu dùng, có thể thay đổi thường xuyên, làm việc xác định chi phí tăng thêm sẽ tương đối phức tạp.

Phương pháp thứ hai, do Liên minh tái chế bao bì Việt Nam (PRO Việt Nam) và Công ty tái chế nhựa Duy Tân đề xuất, dựa trên việc xác định: (i) định mức chi phí thu gom (với biến số liên quan đến tỷ lệ tái chế bắt buộc) cộng với (ii) định mức chi phí tái chế tối thiểu tại Nhà máy tái chế:

*Về định mức chi phí tối thiểu tại Nhà máy tái chế, cũng như phương pháp thứ nhất, đây là chi phí tái chế để đạt được quy cách tái chế tối thiểu quy định tại cột 5 Phụ lục XXII Nghị định số 08/2022/NĐ-CP. Công ty tái chế nhựa Duy Tân đã đưa ra một ví dụ đối với tái chế nhựa PET, chi phí tái chế này chiếm hơn 30% tổng chi phí và mức chi phí này tương đối ổn định, không có biến động nhiều. Như vậy, có thể xác định định mức chi phí tái chế tại nhà máy một cách dễ dàng và đạt được sự đồng thuận cao từ phía nhà tái chế cũng như nhà sản xuất. Còn đối với chi phí thu gom thì sẽ có sự biến động lớn phụ thuộc vào khoảng cách trong thu gom. Sở dĩ chi phí thu gom PET trong báo cáo của Công ty Duy Tân cũng không có sự biến động nhiều vì lượng phế liệu PET hiện nay tương đối nhiều, có thể thu gom ở vị trí gần khu vực tái chế.

*Để rõ hơn về sự biến động trong chi phí thu gom, chúng ta xem xét Báo cáo của PRO Việt Nam về vấn đề này. Theo đó, đối với mỗi tỷ lệ tái chế bắt buộc thì chi phí tái chế sẽ tăng theo tỷ lệ thuận với việc tăng lên của tỷ lệ tái chế bắt buộc. Có thể thấy, với tỷ lệ tái chế bắt buộc đến 10%, tại cột thứ nhất thì chi phí tái chế của PET là 651 VNĐ/kg, chi phí này tăng lên ở các cột tiếp theo vì tỷ lệ tái chế tăng thêm 10% mỗi cột, đến cột 6 với tỉ lệ tái chế bắt buộc là 60% (đây là giả thuyết vì hiện nay tỷ lệ tái chế bắt buộc đối với bao bì PET là 22%) đã tăng lên 6 lần. Theo Báo cáo của PRO Việt Nam, nguyên nhân là do chi phí vận chuyển tăng vì phải tìm kiếm vật liệu ở xa khu vực tái chế với địa bàn rộng hơn. Tuy nhiên, có thể tính được là với mỗi 10% tăng thêm thì chi phí thu gom sẽ tăng lên bao nhiêu. Đối với PET thì 10% đầu tiên chi phí tái chế là 651 VNĐ/kg; 10% tiếp theo thì chi phí tái chế là 1.303 VNĐ/kg, như vậy tăng lên 200%; cũng như vậy 10% tiếp theo tăng 300% so với 10% đầu tiên; 10% tiếp theo nữa tăng 400% so với 10% đầu tiên…, do vậy có thể căn cứ vào tỷ lệ phải thu gom để xác định được một cách tương đối chính xác chi phí thu gom. Đây là một phương pháp có thể cân nhắc để áp dụng, vì nó sẽ tránh được những bất đồng trong xác định Fs vì đây là phương pháp khoa học và thực tế.

Phương pháp thứ ba, xác định định mức chi phí tái chế trên cơ sở doanh thu và hệ số điều chỉnh do INEST đề xuất, đây là phương pháp dựa trên tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng và doanh thu của đơn vị tái chế, theo đó Fs vẫn phải tính đến chi phí tái chế và chi phí thu gom và xem xét đến đặc tính của vật liệu ví dụ Fs sẽ xác định trên cơ sở tổng các định mức chi phí tái chế của từng vật liệu có trong sản phẩm. Ví dụ: Nước đóng chai, nếu nhà sản xuất kê khai theo cách thu hút vật liệu, có 2 loại nhựa là PET và PP (do vật liệu làm nhãn mác được khai thu hút vào nắp): Khối lượng PET chiếm 80%; PP chiếm 20%: thì Fs của PET sẽ bằng 80% định mức tái chế PET cộng với 20% định mức tái chế PP. Có thể thấy, phương pháp này mới chỉ tính được chi phí tái chế trong nhà máy, việc tính chi phí thu gom sẽ được nhà tái chế cân đối trên cơ sở xác định điểm cân bằng lợi nhuận và chi phí tái chế trên thị trường để quyết định.

Thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu để xây dựng một đất nước xanh, sạch bền vững

Ông Hoàng Đức Vượng (Chủ tịch Chi hội Nhựa tái sinh Việt Nam) trao đổi

với các chuyên gia trong nước và Đại sứ quán Hoàng gia Na Uy về Fs

Với phương pháp quan trọng nhất vẫn là phải xác định được tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng và doanh thu của đơn vị tái chế. Điều này sẽ dễ dàng được xác định theo nguyên tắc thị trường thông qua báo giá hoặc đấu thầu. Tuy nhiên, thỏa thuận về tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng và doanh thu, sẽ không công bằng với các cơ sở tái chế có mức độ công nghệ, sản phẩm khác nhau.

Cho dù thực hiện theo phương pháp nào, thì hiện nay, định mức chi phí tái chế vẫn đang bị chi phối bởi chi phí thu mua phế liệu, nhằm phục vụ hệ thống thu gom tư nhân hiện có. Đây là điểm khác biệt của Việt Nam so với các hệ thống EPR tại các quốc gia khác, đặc biệt là châu Âu (EU).

Bước đầu sẽ gặp khó khăn, bất cập

Trong giai đoạn đầu tiên thực hiện cơ chế EPR, định mức chi phí tái chế vẫn nên xem xét đến cơ cấu giá thành thu mua phế liệu để đảm bảo về mặt an sinh xã hội sự duy trì của hệ thống thu gom. Khi hệ thống phân loại, thu gom chất thải tại nguồn được xây dựng tại các địa phương theo quy định của Luật, sẽ có sự điều chỉnh liên quan đến chi phí thu mua phế liệu của nhà tái chế.

Thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu để xây dựng một đất nước xanh, sạch bền vững

Cùng nhau thực hiện EPR để xây dựng một nền kinh tế tuần hoàn (ảnh minh họa)

Một vấn đề nan giải khác chính là xác định chi phí vận chuyển trong tổng giá cả tái chế. Trong một khu vực nhất định thì giá thành vận chuyển sản phẩm, bao bì tái chế là khá cố định và theo khung giá vận chuyển của thị trường. Khi muốn gia tăng lượng tái chế thì có thể phải mở rộng địa bàn thu gom và từ đó, giá thành vận chuyển có thể cao hơn. Để giải quyết vấn đề này, có thể tham khảo phương pháp thứ hai để có thể đạt được sự đồng thuận cao từ nhà tái chế, nhà thu gom và các nhà sản xuất, nhập khẩu.

Nhà sản xuất, nhập khẩu được lựa chọn một trong hai hình thức tái chế, đó là tự tổ chức tái chế hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì. Trường hợp nhà sản xuất, nhập khẩu chọn đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì thì số tiền đóng góp theo từng loại sản phẩm, bao bì theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020.

Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia sẽ có Fs khác nhau do chi phí lao động, công nghệ, thu gom,… khác nhau. Fs cần phải được tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý bao gồm phân loại, thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải. Tuy nhiên, việc đề xuất Fs cho các loại sản phẩm, bao bì phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và cần có sự đồng thuận bởi các bên có liên quan.

Phục hồi xanh đang là xu thế chung của toàn cầu và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang được thúc đẩy mạnh mẽ ở Việt Nam. xây dựng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường đã được đưa vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”, “xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn”.

Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp là con đường để đưa đất nước phát triển bền vững. Cần khắc phục và loại bỏ ngay tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà bỏ qua trách nhiệm bảo vệ môi trường; không hy sinh môi trường để đánh đổi lấy kinh tế.

Diệp Anh

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Lễ ra mắt Hội Doanh nhân họ Vũ - Võ TP. Hà Nội: Cột mốc kết nối, phát triển, lan tỏa giá trị dòng họ

Bắc Ninh tăng tốc chuyển đổi số, khơi thông nguồn lực trong khoa học công nghệ

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Diễn đàn

Thời tiết ngày 14/5: Miền Bắc ngày nắng, chiều tối mưa dông, vùng núi cục bộ có nơi mưa to

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to